A- PHÁP KHÔNG
1- Uẩn-không
“Này ông Xá Lợi, Sắc-uẩn chẳng khác chân-không; Chân-không chẳng khác sắc-uẩn; chấp nhận, tư tưởng, hành động, phân biệt, cũng như thế cả”.
Phần này chủ yếu giải thích chân –không của năm uẩn, rõ ràng không phải là “sắc” mà tỏ rõ tướng “không”, và dứt hẳn là “không”; bởi vì ngay chính “không” ở “sắc” là chân không; ngay “sắc” ở “không” là huyễn-sắc, là “sắc” là tướng đứng đầu mọi pháp, cho nên nêu trước tóm sau, bởi vì nghĩa “sắc” đã tỏ, thì muôn pháp rõ ràng.
“Sắc”là bốn đại huyễn-hữu, “không” là lý chân-không Bát-nhã.
Chúng sinh vì mê chân-không mà có sắc huyễn-hữu. duyên sinh mà có huyễn-hữu, nó vốn không tự-tính, gốc nó vốn là chân-không, ví như ngoài sông không có nước, do chúng sinh khởi lên vọng-tưởng, như gó thổi vào bể chân-tính, mà mê mất nguồn gốc, mà chạy theo sóng vỗ, chìm đắm ở bể khổ.
Đức Phật dạy: hãy dùng tuệ Bát-nhã, soi tỏ huyễn-hữu chẳng khác chân-không như thể hiểu rằng: sóng không khác nước cho nên nói “sắc chẳng khác không”.
Tổ Chí Công dạt:
“Thân vô-tướng ở trong thân hữu-tướng.
Đường vô-sinh ở trên đường vô-minh
(Hữu tướng thân trung, vô tướng thân;
Vô minh lộ thượng, vô sinh lộ)
“Không chẳng khác sắc” là chân-không, là bản-thể của vạn pháp, cho nên vốn đủ mọi pháp, ví như nước sinh ra sông, ra bọt và sóng lớn, sóng nhỏ, và tuỳ những tướng vuông tròn của đồ dựng (ở bầu thì tròn, ở ống thì dàiv.v…) mà chúng-sinh nhân vì chấp huyễn-tướng cho nên mê chân- không, như nhìn sóng mà mê nước. Nên Phật dạy tu tuệ quán Bát-nhã, thấy thể chân-không không khác huyễn-tướng, như hiểu nước không khác sóng, cho nên nói: “không chẳng khác sắc’.
Hai câu “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”, là chính phát minh cái nghĩa không khác. Bởi vì không khác nên chính là đó vậy.
Lại e “người” nhận “pháp” thành chấp, bởi vì còn hai thành kiến “sắc, không” giống như đời nói ngọc đá giống nhau, vốn là hai vật, vì vậy nói là “chẳng khác”, là muốn không có hai thành kiến để cho người ta hiểu “ sắc không” không hai một cách màu nhiệm toàn thể đó thôi. Như sóng là nước, nước là sóng, động, tĩnh có khác, thực chất vẫn không hai thể, bởi vì đó là chân-không. Cho nên để người ta nhận biết huyễn hay chân, nên tạm dắt ra hai tên, nhưng vốn là một vật, cho nên Tổ Vĩnh Gia dạy:
“Thực-tính của vô-minh là Phật-tính
Thân huyễn-hoá là Pháp-thân”
(Vô minh thực tính, tức Phật tính
Huyễn hoá không thân tức Pháp thân)
Vì vậy biết cảnh huyễn, biết gốc là cảnh chân không, thì phải tự tu tập, nên phải dùng trí Bát-nhã soi chiếu; không nhờ trí chiếu, không biết gốc thật, cho nên kiến giải đều khác. Phàm phu thì chấp có thân tâm, cho nên thấy có sinh diệt phải chịu sinh tử; Ngoại đạo thì chấp không, không tin hoạ phúc, nên chịu luân hồi. Nhị thừa thì hiểu lầm, thật có tướng của năm uẩn, không rõ bởi duyên sinh ra nên mới chán lìa, vì vậy là Thanh-văn. Tuy hiểu rõ mọi pháp từ duyên sinh ra năm uẩn nhưng lại không thấu hiểu vốn là vô-tính nên làm duyên-giác. Nếu hiểu được năm uẩn chư pháp là vô-tính, là duyên sinh, duyên sinh vô-tính , vô tính cho nên “không”, “không” đây tức là chân-không. Thể chân –không là Pháp-thân của chư Phật.
Thể pháp-thân chân-không. Vốn không bị đoạn diệt nên phải tìm ở trong huyễn-hữu, ngoài huyễn-hữu ra, không có thật nên nói là chân-không, ngoài thật ra không có huyễn nên mới nói là huyễn-sắc. Vì vậy chân không huyễn sắc là đó cả thôi (tương tức) thế là chân-tông của Bát-nhã, là hết ý của Kinh này.
Vì các bậc Bồ-tát tỏ phép quán trung đạo, dạy thật-tướng, thì lập cả, phá cả nên nói “sắc tức là không, không tức là sắc”. Nhưng Kinh này thể huyễn-sắc là chân-không, hoàn toàn không phải có ý phá không, phá hữu nên không phải theo ý giải thích cũ kia.
Sắc uẩn đã thế, thì bốn uẩn đều thế cả nên nói “chấp nhận, tư tưởng, hành động , thiện ác, ý thức phân biệt cũng như thế cả” (“ thụ, tưởng,hành, thức diệc phục như thị”).
Nếu như nói đủ cả, thì phải nói: thụ chẳng khác không, không chẳng khác thụ, thụ tức là không, không tức la thụ, còn ba uẩn nữa cũng rõ ràng như vậy cả.
Đoạn này Phật dạy quán hiện tiền thân tâm là cảnh sở quán, không phải là tìm pháp nào khác làm cảnh, đó là điểm rất chủ yếu.
Nếu đã quán được một uẩn không, thì bao nhiêu uẩn nữa cũng là không, nên Kinh Viên Giác dạy: Thân huyễn cũng diệt thì tâm huyễn cũng diệt; tâm huyễn diệt thì trần huyễn diệt, trần huyễn diệt rồi thì cái diệt huyễn kia cũng diệt. Cái diệt huyễn kia diệt rồi, cái gì không huyễn thì không bao giờ diệt. Nhưng Kinh Viên giác lấy phá huyễn hiển chân, Kinh Bát-nhã này thì ngay huyễn là chân (thực), ý tuy khác, nhưng sắc với tâm không khác.
Đã biết rằng chân vọng cùng một gốc, không, hữu là một, nay hiện tiền một niệm vộng-tưởng khởi lên, chân-không liền hiện rõ ngay khi đó, dung trí quan sát, vọng thấy không có bản tính, tức là chân-không. Ngay nơi tâm phàm nhận thấy tâm phật thì sao lại bỏ huyễn-vọng nay mà riêng tưởng chân-như ở nơi khác, có khác gì bỏ sóng mà tìm nước, không thể thế được.
Đó là chân vọng vốn chung, không hữu là một (chân vọng đồng nguyên, sắc không bất nhị)
Không có trí tuệ, không thể nào thấu suốt được, vì vậy Phật gọi ngài Xá lợi mà bảo thế đó.
Xá lợi là tiếng Thiên Trúc, Ngài là vị để tử của Phật có trí tuệ bậc nhất. Ngài là con nhà đại luận sư Đề-Xá, dòng họ Bà-la-môn, mẹ ngài là Xá Lợi, gọi theo tên mẹ là Xá Lợi. Dịch ra tiếng Trung Hoa là Thân tử, bởi thân hình mẹ tốt đẹp. Còn gọi là Thu tử, bởi mẹ Ngài mắt sáng như mắt chim Thu (tức chim hoàng anh hay chim khướu)
Ở trung Hoa đã có sáu lần phiên dịch Kinh này, bản kinh nà do ngài Thi Hộ dịch là bản mà Ngài Bồ-tát Quán Tự Tại ớ núi Linh Thứu thuyết Kinh này vì ngài Xá Lợi. Nếu thế dưới chữ Bồ-tát nên có chữ “ngôn” (giảng rằng).
Nay căn cứ vào thể văn của Kinh này, trong bộ Đại bát-nhã, thì phải nói là Phật thuyết, bởi vì văn không có toàn bộ, nên không có hai phần duyên khởi và lưu thông. Song người có trí chỉ nên nhận nghĩa, mà chớ chấp nệ vào vết tích, dù là Phật thuyết hay Bồ-tát thuyết cũng vậy.
Chú thích:
Ly sắc minh không, là muốn nói “không” ở ngoài sắc như nơi tưởng là “chẳng không”, ngoài tưởng là “không”.
Đoạn diệt không là diệt sắc chất đi, để tỏ rõ “không” như đào giếng bỏ dất đi là hố không. Trước có sau không là đoạn diệt. Hai cách đó không phải là tâm chân thật, không có tri giác, không có tác dụng, không thể hiện được vạn pháp, thế nhưng ngoại đạo và Nhị-thừa đều có đoạn diệt. Ngoại đạo đoạn diệt quay về thái hư, Nhị-thừa đoạn diệt quy về Niết-bàn
Có bản dịch Kinh này chia làm ba phần:
1. Từ chữ “Quán Tự Tại v.v…” đến “độ nhất thiết khổ ách” là phần duyên khởi.
2. Từ đoạn “Xá Lợi Tử v.v…” đến “tam-bồ-dề” là phần chính tông.
3. từ chữ “ cố tri v.v…” trở xuống là phần lưu thông, như thế cũng là gượng ép
Kinh này gọi là Tâm Kinh, tức là tâm điểm của bộ Đại Bát-nhã nên không chia làm ba phần
Tổ Từ Ân dạy: Kinh này là chép riêng ra nhưng rất màu nhiệm của Đại Kinh, nên đều không có thông tự, biệt tự và ba phần tự phận, chính tông, lưu thông.
2. Chân –không
a. Giải thích chung.
“Này ông Xá Lợi! Mọi pháp đều là tướng của chân-không, không sinh, không diệt, không bẩn, không sạch, không thêm, không bớt”.
Mọi pháp có năm uẩn v.v… không tướng, đó là thực-tướng của mọi pháp. Bởi vì trươc đó đã dạy 5 uẩn huyễn-hữu là chân-không, mà chưa nói ra tướng của chúng, nên đến đây Phật dạy: “Chân-không là tướng của mọi pháp”.
Chân-không đã là tướng của mọi pháp, thì không thể lìa được, mà nói riêng thì tướng không, chỉ thẳng đương thể của mọi pháp là tướng chân-không, ví như trăng dưới nước, bóng trong gương, hình thể này lìa, sinh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm. Hình thể này không thể tạo cho nó sinh ra, huỷ hoại cho nó diệt đi, nhúng cho nó bẩn, rửa cho nó sạch, thêm để cho hơn, bớt cho nó kém, tại sao? Vì ảnh tướng kia không thật, thể ấy là không cũng như không, không thể lấy sinh diệt cấu tịnh v.v… mà gọi được; tướng chân-không cũng thế, nên không thể đặt tên được, gượng gọi là thật-tướng.
Tướng của thật-tướng dù là mắt tục, mắt trời, mắt đạo pháp, mắt tuệ, mắt thần (ngũ nhãn) cũng không thể nhận thấy được, chỉ các bậc đã chứng Thật-tướng mới có thể thấy được hiểu được. Bởi vì sinh diệt chỉ vào năm uẩn, 12 xứ, 18 giới, cấu tịnh ước chỉ vào tứ-đế, nhân-duyên. Tăng-giảm chỉ vào trí-đắc. Về 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v… vì mê chân chạy theo vọng, nên thấy sinh diệt
.
12 nhân duyên có lưu chuyển, hoàn diệt hai môn là:
– Môn lưu chuyển do hai đế Khổ và Tập là nhân quả của thế gian, nên là cấu (nhơ).
– Môn hoàn diệt, gồm 2 đế Diệt và là nhân quả của xuất thế gian là tịnh (sạch). Bồ-tát tu hành thì đạo có phần tăng, mê-hoặc có phần giảm; nên nói tăng, giảm.
Kinh này nói không sinh, diệt, cấu ,tịnh, tăng, giảm là phát minh trong tướng chân-không của mọi pháp, vốn không có nhân quả Thánh phàm tu chứng, chỉ vào thẳng một thể chân-không của Bát-nhã, khiến cho người ta trút hết mọi kiến chấp, không vướng một sợi tơ, chân-không bộc lộ ra , tức như như Phật.
Chú thích:
Phép quán Hoàn Nguyên dạy: theo thuận dòng sinh tử nhiễm thêm mà không bẩn, ngược dòng sinh tử, không vì trừ nhiễm mà sạch, ở thể Thánh không hơn, ở dòng phàm cũng không kém.
Bát-nhã lược sở dạy: “sắc theo duyên sinh, chân-không không sinh; sắc theo duyên đổi, chân-không không diệt”. Lại dạy: theo dòng sinh tử, không bẩn, không phải ra khởi chướng, mới sạch. Chướng hết chẳng phải giảm, đức đủ chẳng phải tăng; diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm, đó là tướng những pháp hữu-vi. Trái lại để tỏ tướng chân-không, nên nói là “không tướng”.
b. Giải thích riêng:
Vì vậy trong tướng chân-không, không có sắc nhất, không có lãnh thụ, không có tư tưởng, hành động thiện ác và tâm thức; không có tai, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không màu sắc, giọng tiến, hương, vị, xúc, và các pháp; không có giới hạn của tai, mắt… cho đến giới hạn của ý thức.
C – Uẩn Xứ Giới
Để phát minh mọi pháp giới của tướng “không”, không có những việc sinh, diệt v.v… nên không có sắc thụ v.v…
“trong không” là trong tướng “chân không”, vốn lìa tất cả những tướng phàm Thánh nên không có những tướng uẩn ( chứa chấp), xứ (nơi chốn), giới ( giới hạn) và nhân duyên tu chứng đến ngay “không” trong Bát-nhã “ tính không” còn không thể được, huống chỉ còn có những pháp uẩn, xứ, giới, nên nói là “không”.
Nhưng “không” cũng không phải là cái không của rùa không lông, thỏ không sừng, mà ngay tất cả tướng “lìa” tất cả tướng làm “không”. Bởi vì một khi vọng tình đã “tắt”, thì kiến chấp phàm, Thánh tan hết, chân-không lộ riêng hẳn ra nên không thể có được những pháp uẩn, xứ, giới. Không từ “sắc” cho đến “thức” là không năm uẩn; không mắt, tai, đến xúc (tiếp xúc), pháp, là không 12 xứ, không giới hạn của mắt cho đến không giới hạn của ý thức, là không 18 giới. Ấy là hợp 6 căn 6 trần làm 12 nơi chốn. Căn nghĩa là sinh ra thức, Trần với nghĩa là nhiễm ô. Tình thức hợp 6 căn, 6 trần, 6 thức là 18 giới hạn, ở trong là 6 căn, ở ngoài là 6 trần, căn đối với trần, thức sinh ở giữa là thức (tính biến) của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Giới nghĩa là giới biệt (riêng cõi), 18 giới này đều có thể riêng không lẫn lộn, như mắt lấy sắc là giới hạn, tai lấy giọng tiếng làm giới hạn v.v…, cho đến ý lấy pháp làm giới hạn. Mắt không thể vượt qua sắc tướng mà có thấy, tai không thể vượt qua được tiếng mà có nghe, cho đến ý không thể vượt qua được pháp trần mà có biết.
Sắclấy mắt làm giới hạn, bởi sắc tướng chỉ có mắt mới thấy được, mắt không thể thấy được thanh, hương v.v… cho đến ý lấy pháp làm giới hạn, bởi pháp là trần bị biết của ý. Giới hạn chỉ biết của mắt là thuộc về mắt phải dựa vào mắt mới biết được. Mắt cũng không thể phát ra được, biết về âm thanh, hương, vị, v.v…vì thế nên khác biệt. Những cái khác cũng vậy suy ra sẽ rõ.
Uẩn, xứ, giớ đây gọi là ba khoá pháp môn, Pháp môn tuy có 3, tóm cả “sắc, tâm”hai pháp, mở ra hợp lại không cùng.
Đức Phật vì những người mê tâm, không mê sắc, thuyết ra pháo 5 uẩn, hợp sắc làm một phần, khai tâm làm 4 phần ( thụ, tưởng , hành , thức đều thuộc tâm).
Đức Phật những người mê sắc, không mê tâm, thuyết ra pháp 12 xứ, kai sắc ra làm 12,5 ( trong 5 căn, ngoài 6 trần, ½ pháp trần) hợp tâm làm 11½ (ý căn 1 phần với 10 phần 5).
Người lại vì người tâm, sắc đều mê nói ra 18 giới, khai sắc làm 10½, khai tâm làm 7½ (6 thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, bởi them 1½ pháp trần do ý căn nên =7½)
Đức Phật dựa vào cơ chúng sinh, nói ba khoa pháo môn này, đó là tuỳ thuộc vào căn tính, vào phép tu hành của chúng sinh. Chúng sinh noi theo đó mà tu hành thì ngộ nhập ngay được.
Nay trong môn Bát-nhã chân-không này, đều không có việc đó, cho nên nói rằng “không”. Chính là để tỏ thể chân-không thật-tướng không có những tướng chất ngại (sắc chất), lĩnh nạp (thụ), trầm tư (tưởng), tạo tác (hành), liễu biệt (thức), tích tụ cho nên “ không có sắc, thụ, tưởng, hành, thức”.
Thật-tướng chân-không không thể không phải căn trần, các tướng năng nhập, cho nên không 12 xứ; tướng chân-không thật-tướng, không phải căn trần khác biệt cho nên không có 18 giới.
D- 12 NHÂN DUYÊN
“Không có vô-minh, cũng không có tướng hết của vô-minh, cho đến không già chết, cũng không có tướng hết của già chết”.
Đây gọi là 12 nhân duyên, cũng gọi là duyên-khởi, cũng gọi là duyên-sinh.
Vô-minh duyên ra hành động, hành động duyên ra thức tâm, thức tâm duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc tiếp, xúc tiếp duyên ra thụ, thụ uyên ra ái (yêu), ái duyên ra chấp thủ, chấp thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra già chết.
– Vô-minh là mờ tối, những phiền não hoặc đời quá khứ che lấp không có chân tính, không có ánh sang diệu-giác, nhận sằng 4 đại là tướng tự thân, duyên bóng 6 trần là tướng tự âm, cho nên gọi là vô-minh.
Kinh Đại Bát-nhã dạy: ở chỗ không có như thế mà có, ở chỗ không có pháp như thế mà không thấu rõ nổi gọi là vô-minh.
Những phép gì không phải có? Đó là uẩn, xứ, giới, cho đến 18 phép bất cộng, trí nhất thiết của Nhị-thừa, trí đạo chủng của Bồ-tát, trí nhất thiết chủng của Chư Phật, nó bưởi vô-minh,và thế lực của ái dục, phân biệt đoạn, thường hai bên, bởi đó chẳng biết, chẳng thấy, tính vô sở hữu của mọi pháp.
– Hành là tạo tác, nghĩa là thân, khẩu từ quá khứ tạo tác ra nghiệp thiện hay không thiện. Lưu hành luôn luôn không ngừng.
– Thức là tâm vương, chân và vọng hoà hợp gọi là thức, bởi hoặc và nghiệp đời quá khứ dắt nhau, để cho thần thức này gieo vào thai người mẹ.
– Danh sắc, danh là tâm, sắc là thân, từ khi đầu thai cho đến ngày thứ 35 hình thành mọi căn, 4 chi sai khác thế là danh sắc.
– Lục nhập là 6 căn, từ sau khi danh sắc hình thành tới ngày thứ 49 sáu căn giương mở, có tác dụng tiếp 6 trần vào cho nên gọi là lục nhập, cong gọi là lục xứ.
– Xúc, xúc là tiếp xúc, từ khi ra thai đến khi ba bốn tuổi, 6 căn tuy xúc đối 6 trần nhưng chưa hay biết sinh tưởng khổ vui cho nên gọi là xúc.
– Thụ gọi là lĩnh nạp, từ 5;6 tuổi đến 12;13 tuổi, nhận tiếp 6 trần ở ngoài, 6 căn lĩnh biết những việc tốt, xấu nơi tiền cảnh, nhưng chưa phải tâm sân, tham cho nên gọi là thụ.
– Ái là tham yêu, 14; 15 18;19 tuổi lòng tham đối với dâm dục mọi cảnh, nhưng cũng chưa hay rộng khắp tìm kiếm cho nên gọi là ái.
– Thủ là tìm lấy, từ sau 20 tuổi tham muốn càng mạnh, đối với 5 cảnh trần, tìm kiếm rộng khắp cho nên gọi là thủ.
– Hữu là hậu hữu (sau có). Nhân tìm kiếm mọi cảnh, khỏi ra nghiệp thiện ác, chứa góp dẫn dắt, tới quả hữu lậu, phải sinh vào 3 cõi gọi là hữu. (Hữu là tên riêng của nghiệp nhân).
– Sinh là thụ sinh, ở đời hiện tại đã tạo nên những nghiệp thiện ác, đời sau phải luân hồi trong 6 đường, bốn loài cho nên gọi là sinh.
– Lão tử là suy hoại, là đời sau thụ sinh thành thân 5 uẩn suy rồi lại hoại rồi lại già chết.
12 pháp này dần dà dẫn đến nghiệp thành quả báo cho nên goi là nhân. Do tác động vào nhau cho nên gọi là duyên; ba đời nối nhau quẩn quanh không dứt như bánh xe quay cho nên gọi là luân hồi.
Trước đó “vô-minh” đời quá khứ, “hành” là nhân đem lại kết quả cho đời hiện tại: 1 thức, 2 danh sắc, 3 lục nhâp, 4 xúc, 5 thụ.
Bởi quả đời hiện tại, khởi ra ba nhân thời hiện tại là ái, thủ, hữu.
Do nhân đời hiện tại, mà đem lại kết quả cho đời sau là sinh, già, chết, đó là sinh tướng pháp, phàm phu họi là môn Lưu chuyển.
Nếu bậc Duyên-giác, ngộ mọi pháp này là bởi duyên sinh, mà vô-minh diệt, thì hành diệt cho tới lão tử diệt, đó là tướng diệt gọi là môn Hoàn diệt, là pháp của bậc Duyên-giác.
Nếu dùng tuệ quán bát-nhã soi tỏ thể tính vô-minh đều không, không có tướng sinh diệt. Cho nên nói không vô-minh cũng không có tướng hết vô-minh, cho nên không có lão tử (già chết) cũng không có tướng hết già chết.
Nói không có vô-minh sinh là vô thuỷ, không có vô-minh diệt là vô chung.
Tận là diệt hết, thế là cả tướng không đầu và cuối gồm cả giữa, để làm rõ Bát-nhã chân-không. Không có tướng lưu chuyển và hoàn (toàn) diệt, cho nên không có 12 nhân duyên.
E- TỨ ĐẾ.
“Không có khổ, tập, diệt, đạo” (vô khổ, tập, diệt, đạo).
“Khổ” là quả khổ sống, chết. “Tập” là nhân khổ hoặc và nghiệp đó là nhân, đó là nhân quả của thế gian. “Diệt” là quả vui niết-bàn, diệt hết phiền não. “Đạo” là nhân vui về đạo tu trì, đó là nhân quả xuất thế gian.
Luận trí độ bàn, thế gian và thân là quả khổ, mọi phiền não tham, sân, si v.v… là nhân khổ.
Phiền não diệt thì khổ diệt, phương pháp diệt phiền não gọi là “Đạo”.
Đức Như Lai nói pháp Tứ Thánh Đế này chỉ vì phàm phu, Nhị-thừa không biết thế gian ba cõi, năm uẩn, mọi pháp như huyễn hoá ra, vốn tự không sinh, tính tướng tịnh diệt, sống chết, Niết-bàn cũng như chiêm bao; mà ở trong pháp vô sinh chấp không thấy sinh diệt, uổng chịu luân hồi,ví dụ như lửa và mặt tròi long lanh nơi không nước, tưởng lầm là nước chịu mệt hoài, vì vậy Phật bảo họ bớt khổ, dứt tập, mộ đạo, tạm bớt gốc khổ,Thanh văn không hiểu đắm say tịch diệt lấy làm thật chứng.
Bậc Đại-thừa Bồ-tát tu phép quán bát-nhã thấy lẽ chân-không, không có những phép sinh diệt tu chứng vì tự tính “không” cho nên nói “ vô khổ, tập, diệt, đạo”.
“Đế” là rõ thật, phàm phu tuy có khổ tập, mà không rõ thật, không được gọi là đế. Thánh trí không điên đảo, biết rõ cảnh thực cho nên gọi là “Thánh đế”.
Đạo phẩm là 37 phẩm pháp phẩm Bồ-đề. Sẽ giải ở sau.
F- TRÍ ĐẮC
“Không trí cũng không đắc” (Vô trí diệc vô đắc).
Trí là trí năng quán. Được là lý, chứng được là ý nói rõ, không những