Tuệ thứ mười một: Tuệ Xả Hành, cánh cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau đó
Muốn được giải thoát có nghĩa là muốn được trong sạch. Nếu thực sự muốn được giải thoát, chúng ta phải tự thanh tịnh bản thân mình: giới thanh tịnh, định thanh tịnh và tuệ thanh tịnh. Không có quá trình thanh tịnh hóa chúng ta sẽ không thể được giải thoát.
Vì thế bộ chú giải đồ sộ về thiền tập này được gọi là Thanh tịnh Đạo (Visuddhi-Magga). Bằng việc thanh tịnh hóa chúng ta sẽ được giải thoát, điều này rất rõ ràng. Nếu thực lòng muốn giải thoát, chúng ta phải thực sự nhìn sâu vào bên trong mình, tôi đang làm việc gì và với động cơ như thế nào? Giới hạnh, hành vi, thái độ và động cơ của tôi đã trong sạch chưa? Tâm tôi đã trong sáng và thanh tịnh chưa? Tôi đã có đủ sự dũng cảm chưa? Nếu chúng ta xứng đáng với nó, chúng ta sẽ nhận được nó. Vì vậy, chúng ta phải sống một cuộc đời sao cho xứng đáng với nó. Chúng ta muốn một điều gì đó nhưng nếu không xứng đáng, chúng ta sẽ không thể nhận được nó. Bất cứ việc gì cũng thế, tôi muốn được bạn tôn trọng, nếu tôi xứng đáng với điều đó thì tôi sẽ có nó.Tôi muốn nhận tấm lòng từ bi của bạn, nếu xứng đáng, tôi sẽ nhận được. Vì vậy:
Bất cứ điều gì xảy đến trong cuộc đời chúng ta, nó đến chỉ vì chúng ta xứng đáng với nó.
Chúng ta không nhận bất cứ điều gì một cách không xứng đáng. Nhiều người trong chúng ta thường hay ca cẩm: “Ôi trời, tại sao điều này lại xảy đến với tôi cơ chứ”. Hãy tự bảo mình rằng: “Bởi vì tôi đáng phải nhận điều đó”.
Dù là việc tốt hay xấu, tất cả mọi thứ xảy đến với chúng ta chỉ vì chúng ta xứng đáng với nó. Khi đã hiểu rõ điều này bạn sẽ không còn trách cứ, đổ lỗi cho ai nữa. Thậm chí, bạn cũng không còn đổ thừa cho nghiệp của mình nữa. Bạn không trách móc cha mẹ hay chính phủ. Chúng ta thường đổ trách nhiệm cho người khác hay cho hoàn cảnh. Chúng ta không nhận lãnh đầy đủ trách nhiệm của mình. Khi đã thấy rõ mọi sự xảy đến với bạn bởi vì bạn xứng đáng với nó, thì bạn mới học hỏi, trưởng thành và thay đổi được. Khi đó mọi việc sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn. Thái độ đúng đắn này là điều rất quan trọng trong tất cả mọi việc chúng ta làm.
Ở những khoảnh khắc đột phá cuối cùng, một trong ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã sẽ hiện lên rất rõ. Chẳng hạn nếu hành giả thấy vô thường, sanh diệt rõ rệt hơn, vị ấy sẽ thấy vô thường, vô thường, vô thường… rất rõ và sẽ không chuyển sang đặc tướng khác. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ. Ở giai đoạn đầu, đôi khi bạn chuyển từ thấy vô thường sang thấy khổ hay vô ngã, cứ tới lui như vậy. Rồi sau đó, bạn an trụ trong một đặc tướng duy nhất, đặc tướng đó trở thành nổi bật.
Những điều này sẽ rất khó hiểu nếu bạn chưa từng kinh nghiệm qua, nhưng khi đã trải qua chúng, bạn sẽ thấy nó rất tự nhiên. Bạn sẽ thấy đó là một điều hết sức tự nhiên, mọi việc cần phải diễn ra theo cách như vậy. Trong khoảnh khắc cuối cùng, hoặc là bạn sẽ quán sát tiến trình vật lý (sắc uẩn-rupa) hay tiến trình tâm lý (danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức-vedana, sanna, sankhara, vinnana). Trong 5 uẩn chỉ có thể quán sát được một, bởi vì bạn không thể quán sát được cả 5 uẩn trong cùng một sát na. Một tâm chỉ có thể quan sát được một đối tượng, bởi vì bạn quán sát nó lại nhiều lần. Chẳng hạn bạn đang quán sát thọ, bạn sẽ thấy thọ và vô thường, hoặc thọ-khổ hoặc thọ-vô ngã. Nếu đang quán sát sắc, bạn sẽ thấy sắc là vô thường, khổ hoặc vô ngã; chỉ một đối tượng và chỉ một trong ba đặc tướng lặp đi lặp lại. Bạn không chuyển sang đối tượng khác hay đặc tướng khác. Đây là những điều rất quan trọng cần phải biết.
Do đó, khi hành thiền bạn chú tâm đến cảm thọ và nó trở nên ngày càng rõ hơn, hãy an trụ trong đó, điều rất quan trọng là phải làm cho nó trở nên rõ nét hơn. Với bất cứ trạng thái tâm nào,hãy chú ý đến nó nhiều lần; làm cho nó ngày càng rõ hơn. Bạn hiểu được tất cả những điều này một cách tổng quát, nhưng chỉ cần hiểu hoàn toàn đầy đủ một điều thôi là đủ.
Từ khoảnh khắc buông bỏ đó, tâm không thể quán sát bất cứ uẩn nào trong ngũ uẩn được nữa; nó không thể thấy vô thường, khổ hoặc vô ngã, không còn bản ngã. Nó chỉ có thể thấy một sự vắng lặng tuyệt đối, sự chấm dứt, đoạn diệt. Khi đó hành giả sẽ hiểu được rằng, Niết Bàn nghĩa là sự chấm dứt hoàn toàn của tất cả các pháp hữu vi. Điều này rất khó diễn tả; nó không phải là một điều không có thực; bởi vì nếu nói Niết Bàn là “không có gì tồn tại”, thì chúng ta cũng có thể nói rằng Niết Bàn không tồn tại.
Niết Bàn là một kinh nghiệm. Trong khoảnh khắc đó, cả đối tượng và tâm quan sát đều chấm dứt. Hành giả cảm thấy tất cả mọi thứ đi đến chỗ kết thúc.
Làm sao bạn có thể dùng một ví dụ để diễn tả điều đó được? Cảnh giới này nằm ngoài mọi ngôn từ. Chúng ta không thể bàn luận gì về nó được cả. Nó giống như thể bạn đang mang một gáng nặng thật lớn và bỗng nhiên trút bỏ được! Hoặc bạn đang kéo một vật rất nặng, rồi sợi dây kéo bỗng nhiên đứt phựt!
Có một câu kinh Pali diễn tả điều đó rất ngắn gọn và rõ ràng:
Yam kinci samudayadhammam, sabbam tamnirodhamman ti. ~SN v. 423
Samudayadhamman nghĩa là bản chất sanh. Bất cứ cái gì (yam kinci) có bản chất sanh khởi, tất cả (sabbam tam) đề phải diệt tận (nirodhammam). Bạn thấy điều này rất rõ ràng: bất cứ cái gì có sanh thì phải có diệt.
Sau tuệ giác đó, hành giả quán sát lại kinh nghiệm mình vừa trải qua và thấy rằng sự chấm dứt của các hành chính là Niết Bàn tối thượng, chính là hạnh phúc viên mãn. Sau đó một lúc, hành giả sẽ lại tiếp tục quay lại với thiền tập. Khi trở lại với thiền, hành giả sẽ bắt đầu từ Tuệ Sanh Diệt – tầng tuệ thứ 4, chứ không phải từ Tuệ Xả Hành nữa. Đây cũng là một đặc điểm của đạo quả. Sau bước đột phá vào đạo quả bạn lại thấy lại sanh diệt, một cách rất rõ ràng.
Sự kiện này đem đến một số biến đổi quan trọng. Hành giả đã vượt qua được thân kiến (sakkaya-ditthi: tà kiến chấp ngã), nghi (vicikicha) và giới cấm thủ (silabbataparamasa) cũng rất quan trọng. Hiện nay có rất nhiều phương pháp hành thiền và rất nhiều người học thiền. Chúng ta có thể nói là họ đang hành thiền, song thiền lại có rất nhiều khía cạnh. Nếu hành giả tin chắc rằng chỉ cần hành thiền an chỉ định là có thể mang lại giải thoát viên mãn, thì đó lại là một loại giới cấm thủ. Ở thời Đức Phật có nhiều tu sĩ ngoại đạo tin rằng chỉ cần hành động giống như con bò là có thể đạt được giải thoát, có thể đốt cháy hết phiền não trong mình. Tin rằng bằng cách thực hành cách sống như con bò, hay tự hành hạ thân xác sẽ đốt cháy được phiền não và trở thành thanh tịnh, đó là một loại pháp hành sai lầm. Giới cấm thủ (silabbataparamasa) nghĩa là thực hành sai trái, thực hành theo một đường lối sai lầm và tin rằng nó sẽ dẫn tới giải thoát.
Khi đã đột phá qua đạo quả, lúc đó hành giả sẽ hiểu rằng không có pháp hành nào khác có thể dẫn tới giải thoát thực sự. Chỉ pháp hành nào có Bát Chánh đạo mới có thể dẫn tới giải thoát, Niết Bàn. Không có pháp hành nào khác có thể đưa tới chỗ đó.
Bất cứ pháp hành nào không theo Bát Chánh đạo, mặc dù có thể mang lại một sự tĩnh lặng, an lạc nào đó cho tâm, cũng không bao giờ có thể dẫn tới giải thoát. Nó có giá trị riêng của nó, cũng như hành thiền an chỉ định có giá trị riêng của nó, nhưng nó không dẫn tới giác ngộ giải thoát. Nó có thể là một giai đoạn trong quá trình thực hành của bạn nhưng không phải là giai đoạn chung kết; nó không thể dẫn tới đích cuối cùng, không thể dẫn tới mục tiêu tối hậu. Có rất nhiều đường lối thực hành khác và nhiều người nói nếu bạn thực hành theo cách đó cũng dẫn tới Niết Bàn.
Không, con đường duy nhất tới Niết Bàn là quán sát tiến trình thân tâm của chính mình.
Để làm nền tảng cho pháp hành, bạn phải giữ giới trong sạch, cách sinh sống chính đáng, thanh tịnh. Không có sự thanh tịnh tâm ý như vậy, tâm sẽ không bao giờ có đủ dũng cảm, động năng và sáng suốt. Nếu sống với cảm giác lầm lỗi, bạn sẽ không bao giờ được tự do để quan sát mọi việc một cách rõ ràng và buông bỏ được chúng. Cảm giác tội lỗi là một ngục tù; nó giam giữ bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Mỗi khi cảm thấy mình có tội hay có cảm giác hổ thẹn, bạn sẽ không thể có được sự tiến bộ nào.
Hãy giữ giới trong sạch, các sinh sống trong sạch, gìn giữ tâm mình trong sáng và thanh tịnh là điều cần thiết. Không có sự thanh tịnh sẽ không thể có giải thoát thực sự.
Một số người hành thiền nhưng lại cho rằng giữ ngũ giới không phải là điều thực sự quan trọng; họ không thực sự cố gắng hết mình để giữ giới. Nếu bạn không giữ 5 giới mà hành thiền và tin rằng nó sẽ dẫn đến giải thoát thì đó chính là giới cấm thủ (silabbataparamasa): đường lối thực hành sai lầm, chấp thủ vào pháp hành sai lầm, tin tưởng vào pháp hành sai lầm.
Một số người hành thiền, đôi lúc chứng nghiệm được một trạng thái tâm rất thanh tịnh và an lạc, và họ lầm tưởng rằng đó là Niết Bàn. Khi đã thực chứng được Niết Bàn thực sự, họ mới nhận ra cái trước đó chỉ là Niết Bàn giả. Sự lầm tưởng về Niết Bàn cũng đã được vượt qua. Chỉ đến tầng đạo quả thứ 3 hành giả mới có thể vượt qua được tham và sân. Tầng đạo quả thứ nhất chưa tận diệt được lòng tham muốn, mong cầu và sân hận, chỉ tận diệt được tà kiến và nghi. Một vị Thánh Tu-đà-hoàn (Thánh Nhập Lưu) vẫn thụ hưởng ngũ dục, song vị ấy có giới đức rất trong sạch và không bao giờ phạm giới, ngay cả đến ý định phạm giới cũng không hề có đối với vị ấy. Chẳng hạn, vị Thánh Tu-đà-hoàn vẫn thích ăn ngon, nhưng vị ấy sẽ không bao giờ phạm giới để có được món ăn ngon đó hoặc bất cứ cái gì khác như vậy. Cách sinh nhai nuôi mạng của vị ấy cũng rất trong sạch. Ngay cả khi vẫn phải làm ăn kiếm sống, vị ấy cũng không bao giờ lừa dối. Vị ấy có thể thất vọng, buồn bực và giận dữ nhưng mỗi khi quan sát trạng thái tâm đó, vị ấy có thể thấy rõ đó chỉ là một trạng thái tâm mà thôi và sẽ ra khỏi nó rất nhanh. Vị ấy sẽ không bị mắc kẹt trong đó.
Đạo quả thứ hai không tận diệt được loại phiền não nào. Nó chỉ làm suy yếu thêm tham và sân. Thậm chí sau tầng giác ngộ thứ ba hành giả vẫn còn một số loại phiền não nhất định, vẫn còn bám víu vào một đời sống rất đặc biệt, một cảnh giới sinh tồn thanh tịnh, không hưởng thụ ngũ dục, không sân hận, nhưng vị ấy vẫn hưởng thụ niềm hạnh phúc an lạc, thanh tịnh. Cũng vẫn một loại hài lòng, mãn nguyện nào đó rất gần với mạn. Bạn rất mãn nguyện với những gì mình đã đạt được; đây là một loại ngã mạn và dính mắc rất vi tế mà chỉ vượt qua được ở tầng đạo quả thứ tư. Nếu hành giả là một quan tòa và đã là một vị Thánh Tu-đà-hoàn thì vị ấy sẽ không bao giờ làm điều gì sai trái, không bao giờ nhận hối lộ. Vị ấy rất công bằng và chánh trực.
Tầng đạo quả đầu tiên tận diệt triền cái (nivarana) nghi (vicikiccha) và triền cái tham, sân (kamacchanda, vyapada) loại rất thô.
Hối quá (kukkucca) được tận diệt ở tầng thánh thứ ba. Đây là điều rất quan trọng chúng ta cần phải lưu ý. Trong một số tôn giáo khác, họ nói rằng nếu một người phạm lỗi và suy nghĩ về lỗi lầm của mình, cảm thấy không vui về điều đó, khóc than, tự hành hạ mình để sám hối, họ cho rằng làm như vậy là rất tốt, hối hận là một việc tốt. Điều đó nghĩa là sao? Nếu đã làm điều gì đó sai lầm, thì tốt hơn cả là đừng hối hận về việc đó nữa. Hối hận đi cùng với hiểu biết sâu sắc thì là việc tốt, nghĩa là bạn không tự khóc lóc, than vãn về việc đó nữa, mà sẽ học hỏi từ nó. “Đúng thế, tôi đã hành động sai lầm và tôi sẽ không làm như thế nữa. Nếu tô phải chịu hậu quả của việc làm đó, OK, tôi có đủ can đảm để gánh chịu hậu quả việc làm của chính mình, nhưng tôi sẽ không than khóc về chuyện đó”.
Thật là vô ích khi nghĩ ngợi về những điều mình đã làm, rồi thấy khổ tâm mà không thể làm được điều gì cả. Đừng lãng phí thời gian của mình như thế. Nếu đã lỡ làm điều gì đó sai lầm, hãy học hỏi từ nó và tự sửa mình, tiếp tục tiến lên và làm những việc tốt, tiếp tục làm công việc của mình. Bạn thấy đấy, lời dạy của Đức Phật là: hãy tiến lên, học hỏi và trưởng thành.
Bạn có biết nghĩa gốc của từ kukkucca là gì không? Mặc dù chúng ta thường dịch ra là hối hận, hối quá, song gốc của nó là do hai từ kud và kata ghép lại mà thành. Kud là xấu, kata nghĩa là đã làm. Nhưng điều đó không giải nghĩa từ này một cách chính xác. Nghĩa chính xác của kukkucca là nếu bạn đang hối hận, thì đó là một việc xấu, bản thân nó là một việc bất thiện. Hãy nhìn sâu vào tâm mình xem, khi hối hận, trạng thái tâm của bạn như thế nào? Nó có bình an không? Không, nếu nhìn thật sâu, bạn sẽ thấy càng hối hận là bạn đang càng dính mắc, bám víu vào nó, càng bám víu vào bản ngã hơn. Nhìn thấy được những điều này rất ư thú vị. Ngay cả một vị Thánh Tu-đà-hoàn cũng chưa thể thực sự vượt qua được hối quá, ngay cả tầng thánh thứ hai là Tư-đà-hàm cũng chưa vượt qua được nó. Chỉ có tầng thánh thứ ba là A-na-hàm mới có thể tận diệt được hối quá.
Tâm tàm, quý (hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi) đi cùng với trí tuệ và tri kiến. Bởi vì điều này nên bạn sẽ không làm việc kia. Nhưng khi bạn đã phạm sai lầm và thấy hối hận về sai lầm đó thì thế nào? Và khi bạn thấy hổ thẹn thì lý do tại sao phải hổ thẹn? Bởi vì có người đã phát hiện ra điều đó chăng? Nếu đó là lý do, thì nó không phải là tâm tàm quý – hổ thẹn tội lỗi thật sự nữa. Việc đó chỉ là để bảo vệ hình ảnh của bạn mà thôi, cái ngã còn to hơn; nó để bảo vệ cái ngã của bạn.
Tâm tàm quý thực sự đi cùng với trí tuệ… điều này thật đáng hổ thẹn, tôi sẽ không làm như thế nữa. Nếu đã làm một việc gì đó và nhận ra đó là việc làm đáng hổ thẹn thì bạn sẽ không làm nữa.
Bạn không nên tiếp tục sống với sự hổ thẹn và hối hận, để rồi không thể làm được việc gì tốt đẹp hơn nữa. Bạn phải vượt qua sự hổ thẹn và hối hận để tiếp tục tiến lên, làm một việc gì đó tốt đẹp hơn, tự thay đổi, tự sửa mình.
Bạn phải hiểu được điều đó với tâm từ bi và sự khoang dung, tha thứ cho chính mình, bởi vì đối với tất cả mọi người chúng ta, phạm sai lầm là một điều tự nhiên. Ngay cả Ngài Ananda cũng đã từng làm những việc thật kinh khủng trong quá khứ, khi đang còn bổ túc các Balamật của mình. Ngay cả Đức Bồ tát cũng đã từng làm những việc ghê gớm, Ngài đã tà dâm với một phụ nữ. Ngài Ananda đã từng là một người thợ vàng, nhiều phụ nữ xinh đẹp, giàu có đến chỗ Ngài làm đồ trang sức và Ngài đã tà dâm với nhiều người trong số họ. Điều đó không có nghĩa là làm như vậy cũng được, mà là bởi vì tham sân si nên con người ta đã làm những việc như vậy. Thậm chí, từ ngay cả những lỗi lầm như thế, bạn vẫn có thể học hỏi, trưởng thành và giải thoát được.
Hành giả đã chứng đạo giữ gìn giới hạnh của mình nguyên vẹn và rất trong sạch mà không cần đến sự đánh giá, bình phẩm của thiên hạ! Tôi dã từng nghe rất nhiều lời bình phẩm, người ta đàm tiếu: “Mặc dù ông ta đã đắc đạo, nhưng bởi vì quá nhiều cám dỗ nên ông ta đã làm điều ấy, điều nọ”, đó chỉ là lời đánh giá, bình phẩm của miệng lưỡi thế gian! Năm giới là tối thiểu, đó là điều không cần phải bàn luận. Ở thời Đức Phật, có rất nhiều tôn giáo ngoại đạo và một số cho rằng người đã đắc quả Tu-đà-hoàn vẫn có thể bị tái sanh vào khổ cảnh bởi vì vẫn còn tham, sân, ngã mạn. Đức Phật nói không. Mặc dù vẫn còn tham, sân, ngã mạn nhưng tâm vị ấy đã đủ trong sạch để không đang phải ở trong những kiếp sống thấp hèn như thế nữa.
Cuộc sống là kết quả của chính nội tâm chúng ta. Khi tâm trong sạch và cao thượng, nó sẽ không thể ở trong một kiếp sống thấp hèn nữa.
Vị đó có thể cảm nhận được rằng: “Tôi không thể bị tái sanh vào khổ cảnh nữa”. Đạo quả đầu tiên cũng tận diệt cả thói dối trá, hư ngụy (musavada), nhưng những lỗi về khẩu bất thiện khác vẫn có thể xảy ra. Một vị Tu-đà-hoàn vẫn có thể nói về những chuyện vô bổ trên mặt báo, toàn những chuyện tầm phào vô ích! Các thân hành bất thiện khác (miccha-kammanto) như sát sanh, trộm cắp, tà dâm thì không! Một bậc Thánh Tu-đà-hoàn không thể làm những chuyện đó, cả cách sinh nhai bất thiện (miccha-ajova), như lừa đảo trong kinh doanh hay những việc tương tự như vậy cũng không.
Tầng đạo quả thứ hai không tận diệt thêm phiền não nào, mà chỉ làm suy yếu chúng. Tầng thánh thứ ba tận diệt tà tư duy (miccha-sankappo), lời nói vu khống (pisunavaca) và những lời nói thô ác (phasusavaca). Chỉ đến tầng thánh thứ tư mới tận diệt được samphappalapa – “nói những chuyện vô bổ trên mặt báo” và miccha-vayama (tà tinh tấn), miccha-samadhi (tà định) miccha-vimutti (tà giải thoát) miccha-nana (tà tuệ).
Hỏi & đáp: Mặc dù đã đạt đến tầng đạo quả thứ nhất, nhưng vị ấy vẫn còn một số loại phiền não, xin hãy hiểu cho như vậy. Nhiều người nói rằng: “Nghe nói ông này đã đắc đạo nhưng xem kìa, ông ta vẫn thích đọc báo và thích ăn ngon” hoặc những điều đại loại như vậy. Vị ấy giữ gìn trọn vẹ ngũ giới, thế đã là điều quá tốt đẹp.
Hỏi & đáp: Một số người hỏi Đức Phật cũng một câu hỏi y như vậy, nhưng với cách hỏi hơi khác một chút. Họ hỏi: “Trong các tôn giáo khác có các vị thánh Alahán hay không?”. Đức Phật không nói có hay không, mà Ngài trả lời là: “Bất cứ người nào thực hành Bát Chánh đạo một cách đầy đủ đều có thể giác ngộ và trở thành bậc thành Alahán”. Tiêu chuẩn ở đây là Bát Chánh đạo. Bạn hãy nghiên cứu Bát Chánh đạo và xem có thể bỏ qua được bất cứ một chi phần nào trong đó không. Hãy xem điều gì sẽ xảy ra nếu bạn làm điều đó. Điều này rất tự nhiên.
Hãy suy nghĩ về Bát Chánh đạo và xem có thể bỏ bớt bất cứ một chi phần nào trong đó được không, mà vẫn tin rằng không cần thực hành chi phần đó vẫn có thể giác ngộ giải thoát được.
Hỏi & đáp: Trong Bát Chánh đạo, thiền Vipassana được bao hàm trong Chánh niệm (samma-sati) và Chánh định (samma-samadhi). Đối với Chánh mạng, Chánh kiến, Chánh tư duy cũng vậy, làm sao một người tà kiến và tà tư duy lại có thể đắc đạo được? Không có Chánh mạng, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh định, Chánh niệm, Chánh tinh tấn, không có giới – định – tuệ, không người nào có thể giải thoát. Một người, trước khi đắc đạo, phải thực hành đầy đủ, viên mãn Bát Chánh đạo. Ở đây thời gian thực hành dài hay ngắn không thành vấn đề.
Hỏi và đáp: Sự chứng ngộ diễn tiến theo từng giai đoạn, nhưng nó có thể xảy ra trong vài sát-na, vài phút hay vài giờ từ từng này đến tầng kia. Tôi cũng đọc trong kinh điển có những người đắc quả Alahán chỉ trong vòng một thời tọa thiền. Các phẩm chất tâm linh của họ đã được phát triển đến mức rất cao. Khi đã biết cách hành, họ thực hành và đột phá qua 4 tầng thánh chỉ trong vòng một thời thiền.
Hỏi & đáp: Không có khoảng cách nào ở giữa cả. Bạn không nghĩ về bất cứ một điều gì hết. Tâm sau tiếp nối tâm trước quán sát liên tục lặp đi lặp lại một cách rất mạnh mẽ, rất rõ ràng, chỉ một trong 3 đặc tướng để ngày càng trở nên sáng suốt hơn và cuối cùng… hoàn toàn buông bỏ! Đó là những tầng tuệ giác hết sức mạnh mẽ và đầy uy lực. Ngay cả trước đó bạn đã có thể thấy được cả chuỗi vô thường, khổ, vô ngã, không có khoảng cách nào giữa chúng, song tuệ giác còn yếu. Nhưng ở những tầng tuệ giác cuối cùng, sự quán sát trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng tâm thực sự sẵn sàng buông bỏ!
Hỏi & đáp: Chúng ta có thể thấy được một đặc tướng trong một thời điểm, không thấy được toàn bộ cả ba đặc tướng cùng một lúc.
Hỏi: Làm thế nào để biết mình thực sự không suy nghĩ?
Đáp: Khi đã thực sự thấy thì bạn không còn suy nghĩ. Không có một chút suy nghĩ nào trong đó. Trong một đêm tối đen như mực, bạn nhìn lên bầu trời và thấy một ánh chớp chợt lóe lên, bạn thấy và nó liền biến mất. Vào lúc đó bạn không hề tưởng tượng, mà thực sự thấy và trực nghiệm được nó. Khi điều đó xảy ra, nó khác xa với sự tưởng tượng.
Ở giai đoạn mới bắt đầu, thỉnh thoảng nó diễn ra trong chốc lát, bởi vì bạn không thể chánh niệm được một cách liên tục trong mọi lúc, và ngay cả khi hành thiền đều đặn, thường xuyên thì cũng có lúc thấy lúc không, và thấy ở những mức độ khác nhau. Có lúc thấy rõ ràng, lúc khác lại rất mờ nhạt, mơ hồ.
Tâm xả là rất cần thiết, hoàn toàn quân bình, hoàn toàn xả ly, hoàn toàn cân bằng, rất trong sáng và buông xả… chỉ quan sát, không gợn chút suy nghĩ. Khi tâm tiến rất gần tới thời điểm đột phá, không hề còn chút suy nghĩ nào nữa, mọi việc trở nên rất nhanh.
Hỏi & đáp: Từ tuệ thứ tư trở đi, tâm ngày càng vắng lặng và định tĩnh. Chỉ thỉnh thoảng mới có một thoáng suy nghĩ ngắn ngủi xen vào, nhưng bạn nhận biết và nó biến mất ngay. Suy nghĩ không còn lan man như trước nữa. Nó đến rất yếu ớt, bạn thấy rồi nó biến mất. Ở những tầng tuệ sau, nhất là Tuệ Yếm ly (adinava-nana), bạn bắt đầu suy nghĩ rất nhiều. “Ôi, sao có qua nhiều sự khiếm khuyết, bất toàn đến thế! Có gì đâu mà ham mê, có gì đâu mà vui thú?”. Nếu suy nghĩ quá nhiều bạn sẽ trở nên vô cùng buồn khổ. Không suy nghĩ là điều rất quan trọng. Khi bạn cảm thấy nhàm chán và thấy buồn khổ về tiến trình, nếu ngừng hành thiền và suy nghĩ về nỗi khổ trong cuộc sống hàng ngày, bạn sẽ cảm thấy không thể nào chịu đựng nổi. Bạn cảm thấy thất vọng về mọi thứ, nhìn thấy tất cả mọi thứ đều khiếm khuyết, bất toàn. Bạn cảm thấy nhàm chán và không còn vui thích với tiến trình tâm-vật lý nữa và cảm thấy đau khổ về thực trạng sống của mình. Điều này sẽ làm bạn bị stress và khủng hoảng tinh thần. Khi bạn đến giai đoạn này, điều rất quan trọng là đừng suy nghĩ nữa.
Suy nghĩ rất nguy hiểm, nó có thể biến hóa ra rất nhiều thứ. Nó có thể khiến bạn trở nên dễ bị xúc động. Tuệ giác thực sự thì không dễ xúc động, nó là sự sáng suốt của trí tuệ và tri kiến. Không có sự thỏa mãn, không có chút gì vui thú trong tiến trình này, điều đó rất rõ ràng.
Nhưng nếu cứ suy nghĩ về những điều này, bạn sẽ trở nên dễ bị xúc động, buồn khổ và trầm uất. Tất cả mọi thứ đều bị kích động, quấy rối bạn ngày càng một nhiều hơn; tiếng động và rất nhiều thứ khác đều quấy rối, chọc giận bạn, làm cho bạn khó chịu, bực mình. Đôi khi bạn nổi sân lên và khi đó nó trở thành một trạng thái tâm bất thiện, chứ không còn là tâm thiện nữa. Tuệ giác là pháp đại thiện, nhưng khi bạn giận dữ, buồn bực, cáu kỉnh và trầm uất thì tâm đã trở thành bất thiện. Do đó, điều rất quan trọng là bạn không được nghĩ ngợi. Tiến trình suy nghĩ, kết hợp với một mức định tâm nào đó, sẽ làm cho mọi việc trở nên căng thẳng hơn. Định sẽ làm cho mọi việc trở nên rất căng thẳng. Nếu bạn muốn thưởng thức một cái gì đó, hãy làm cho tâm trở nên tĩnh lặng và định tĩnh, khi đó bạn có thể thưởng thức được nhiều hơn.
Khi đọc sách với tâm xáo động, bất an, tôi không thể thưởng thức được cuốn sách đó. Nếu thực sự muốn thưởng thức một cuốn sách, một câu chuyện, một vần thơ hay một lời hay ý đẹp, tôi cần phải làm cho tâm mình trở nên thật tĩnh lặng và bình an đã. Khi đó, mỗi từ đều chứa đầy ý nghĩa, và tôi có thể thực sự thưởng thức được những điều mình đang đọc. Ngay cả đối với cảnh vật cũng thế, khi tâm tĩnh lặng, tôi ngắm bình minh đang rạng hay cảnh chiều tàn, hoàng hôn đang buông, tôi có thể để hoàn toàn tâm trí vào đó và nó trở nên thật tuyệt vời, thế giới thật là đẹp biết bao. Khi tâm bất an, trạo cử, bạn không thể thưởng thức được những điều đó. Cũng vậy, khi tâm định tĩnh, tập trung và bạn suy nghĩ một điều gì hãi hùng, quá tán loạn thì bạn không sợ được nữa, không tức giận, không gì hết cả, bạn đã quá rối trí. Một cái tâm rối bời, tháo động sẽ không thể nhận biết điều gì một cách sâu sắc được. Lúc đó có rất nhiều tâm si. Uddhacca – trạo cử rất gần với tâm si. Trạo cử nghĩa là một cái tâm tán loạn, phân tán và bất an.
Mỗi khi tâm trở nên vắng lặng và định tĩnh, đừng tưởng tượng điều gì cả, bởi vì lúc đó sư tưởng tượng sẽ trở nên rất thực, dù tưởng tượng tốt hay xấu.
Điều quan trọng nhất là khi có suy nghĩ đến thì hãy chú ý sâu sát vào suy nghĩ đó.
Nếu bạn chú tâm vào nó, nó sẽ biến mất. Mỗi khi nó đến, chỉ cần chú ý thật kỹ.
Chỉ cần chú ý vào suy nghĩ sẽ làm nó biến mất, rồi sau đó mới đưa tâm trở lại đề mục thiền của mình.
Vì vậy, đừng khuyến khích sự suy nghĩ. Đôi khi người ta thường thích nghĩ ngợi. Nếu bạn phát hiện ra mình đang ham thích nghĩ ngợi như vậy thì hãy quan sát ngay sự ham thích đó, quan sát ý muốn nghĩ ngợi đó của mình. Suy nghĩ tạo ra cái “Tôi là”. Khi bạn ngừng suy nghĩ, đôi lúc bạn trở nên rất không thực, bạn cảm thấy mất mát một cái gì đó, không có cái gì để bấu víu nữa. Theo một cách nào đó, suy nghĩ là sự bám víu, chấp thủ, thậm chí ngay cả khi tức giận một ai đó, bạn vẫn cứ nghĩ hoài đến người đó. Điều đó có nghĩa là bạn đã bị dính mắc vào chính ý tưởng đó, bạn bị dính mắc vào những điều xảy ra và không thể buông bỏ được.
Theo: Bản đồ hành trình tâm linh
Tác giả: Sayadaw U Jotika
bạn đọc đón xem chương 10, phần 1 : Niết Bàn và sau đó