Chương 7
Tuệ thứ tư : Kinh nghiệm sự sanh diệt của các hiện tượng. Phân biệt đạo và phi đạo.
Tâm trở nên rất an tịnh và thư giãn, thư giãn hơn nữa và rồi sau một lúc không còn ý thức. Khi quá thư giãn, bạn sẽ trở nên mất ý thức. Đôi khi đó chỉ là một giấc ngủ say thật sự! Giấc ngủ này rất khác với giấc ngủ bình thường. Thông thường khi bạn ngủ thì thân không thể giữ được tư thế ngồi, nó sẽ trở nên ẻo lả, mềm rũ ra. Khi bạn hành thiền, tâm có thể rất tĩnh lặng và an lạc, định rất mạnh, khi buồn ngủ thân không hề rũ xuống, mà vẫn giữ nguyên được tư thế cũ. Khi bạn thức dậy, tâm vẫn rất trong sáng, rõ ràng và không hề cảm thấy lờ đờ, mệt mỏi. Bạn lại sẵn sàng để hành thiền tiếp. Nhiều người tôi biết, và ngay cả tôi đôi khi cũng kinh nghiệm được điều đó, sau khi ngồi thiền nhiều tiếng trong ngày, có lúc bị rơi vào giấc ngủ, đôi khi rất lâu. Khi thức dậy tâm vẫn rất tươi mới, sảng khoái, trong sáng và tỉnh thức và khoảnh khắc thức dậy, bạn tự động hành thiền trở lạ. Thông thường khi người ta thức giấc, họ không thực sự biết là mình đã tỉnh. Các ý nghĩ mơ màng còn tiếp diễn cả một lúc lâu rồi họ mới tỉnh dậy được; song đối với các thiền sinh thì ngay khi họ vừa thức dậy, tâm đầu tiên sanh khởi là hành thiền ngay; thiền sinh sẵn sàng để hành thiền. Đó là một điều rất tốt.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là ở giai đoạn này một số người có thể hành thiền cả trong giấc mơ nữa. Bạn đã bao giờ nghe nói đến điều đó chưa? Bạn có thể hành thiền trong mơ được không? Sư phụ tôi thường hỏi kiểm tra tôi thế này: “Con có hành thiền trong khi mơ không”. Tôi đáp: “Bạch thầy, con vẫn chưa được ạ”. Sư phụ nói: “Được rồi, vậy hãy cố gắng chánh niệm hơn nữa, chánh niệm hơn, hành thiền nhiều hơn nữa”. Tôi cố gắng hành thiền nhiều hơn, và rồi một lần tôi đã hành thiền được trong mơ. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc bởi vì tôi đã có cái để trình với Sư phụ. Chúng ta thường muốn làm thầy mình hài lòng và muốn thầy nghĩ thật tốt về mình. Vì vậy tôi vội tìm đến cốc của người, ngồi chờ bên ngoài cho đến khi Sư phụ đi ra và nói: “Con có điều này muốn trình với thầy”. Hồi đó tôi còn rất trẻ và vẫn còn rất trẻ con nữa, rất ấu trĩ, nhưng bởi vì rất vui nên tôi phải nói cho thầy biết. Sư phụ ngồi nghe rất hài lòng, mỉm cười và nói: rất tốt, chánh niệm của con đã mạnh hơn rồi đó.
Thậm chí chúng ta còn có thể hành thiền một cách vô thức nữa, nó trở thành một thói quen. Trong giấc mơ, chúng ta thường mơ thấy những việc mình làm ban ngày.
Một bác sỹ có thể mơ đang mổ xẻ, khám bệnh, tiêm thuốc hay tiếp bệnh nhân. Người bán hàng có thể nằm mơ đang bán hàng cho khách. Một sinh viên thì mơ thấy mình đang làm bài thi. Có lần tôi cũng nằm mơ đang làm bài thi, thật kinh khủng, tôi quên mất điều gì đó và không thể trả lời câu hỏi thi được! Điều tự nhiên là chúng ta hay mơ thấy những việc thường làm. Như vậy, hành thiền trong giấc mơ là môt dấu hiệu cho thấy hành thiền đang trở thành một thói quen của bạn. Giây phút vừa thức dậy là bạn đã sẵn sàng hành thiền. Sau một thời gian, bạn sẽ không còn nằm mơ nhiều nữa, rất ít khi bạn mơ, bạn ngủ và khi thức dậy là đã sẵn sàng hành thiền ngay; ở khoảng giữa không có giấc mơ nào cả.
Một vị Alahán không còn nằm mơ nữa. Mơ là dấu hiệu cho thấy vẫn còn một loại tâm si nào đó, có một cái gì đó vô thức vẫn đang xảy ra. Si có nhiều nghĩa: ngu đần, mê lầm, rối trí, muội lược và ảo tưởng. Đối với một vị A la hán thì không còn có cái gì là vô thức nữa. Vô thức và hữu thức đã trở thành một. Đối với hầu hết mọi người, vô thức nhiều hơn hữu thức. Rất nhiều ý nghĩ vô thức vẫn tiếp diễn ngay cả khi chúng ta đang thức. Nhưng đối với người hành thiền, những ý nghĩ đó sẽ trở thành hữu thức.
Đó chính là cách hành giả có thể chuyển hóa vô thức của mình, đây là một quan điểm hết sức kỳ lạ đối với các nhà tâm lý học. Đó chính là cách thiền tác động đến tính cách của con người. Không có cách nào dể làm được điều này hiệu quả hơn hành thiền. Nhiều loại bệnh tâm thần, suy nhược thần kinh đã biết mất; bạn không cần phải làm bất cứ việc gì với chúng. Đây thực sự là một cách rất tốt để phát triển các đức tính tốt và vượt qua những thói quen xấu của mình. Rất nhiều người hành thiền đến giai đoạn này đã bỏ thuốc lá. Hút thuốc thực ra không phạm một giới nào cả, nhưng nhiều người đã bỏ. Thậm chí họ còn bỏ không uống quá nhiều trà và cà phê nữa. Bất cứ loại dính mắc hay nghiện ngập nào cũng đều bị từ bỏ. Thực ra bạn cũng không cần phải cố để bỏ, mà chỉ vì không thấy thích nữa. Rất nhiều người tôi biết, trong đó có cả một số bạn bè của tôi, trước đây nghiện rượu và hút thuốc rất nhiều, nhưng sau đó họ bỏ tất cả.
Cũng trong giai đoạn này, nhiều chứng bệnh trong cơ thể biến mất, không chỉ là bệnh thần kinh mà các bệnh của thân cũng khỏi hẳn. Trạng thái an tịnh, khinh an và hỷ lạc có tác dụng chữa bệnh rất hiệu quả. Vì vậy bạn thường nghe nói nhiều người đã khỏi bệnh nhờ hành thiền. Nhiều chứng bệnh sợ hãi, lo lắng vô cớ, mất ngủ cũng được chữa khỏi hẳn. Khi có nhiều sự tĩnh lặng và an tịnh trong tâm, hành giả sẽ không thích đến những nơi đông người, ồn ào, náo nhiệt nữa. Họ cố tránh mọi hoạt động và những xáo dộng không cần thiết. Họ chỉ muốn tránh đi thật xa, sống ở một nơi thật yên tĩnh và bình an để tập trung hành thiền.
Ở giai đoạn này, ngay cả khi đi, bạn cũng có cảm giác như người mình không có trọng lượng. Bạn nghĩ đến việc bước chân và chân đã sẵn sàng bước tới. Bạn chánh niệm hay biết điều đó nhưng không có cảm giác về sức nặng. Bước này tiếp nối bước kia, bạn cảm giác như mình đang đi trên không khí vậy, cảm nhận mỗi sự xúc chạm của chân với sàn nhà. Bạn cảm nhận được cảm giác xúc chạm nhưng không cảm nhận được trọng lượng của chân, bạn có thể bước đi rất nhanh, có cảm giác như mình đang chạy. Không đau, nhức, không cảm thấy nóng nực. Tâm không hề xao lãng. Say đây là một bài kệ trong kinh Pháp cú (Dhammapada), một bài kệ rất hay:
Sunnagaram pavitthassa, santacittassa bhikkhuno, amanusi rati hoti, samma dhamma vipassato. ~Dhpd 373
Hành giả hành thiền ở một nơi thanh vắng (Sunnagaram pavitthassa, santacittassa bhikkhuno). Vị ấy cảm nhận được hỷ lạc và hạnh phúc cao thượng vượt ra ngoài hạnh phúc thế gian (amanusi rati hoti); bởi vì vị ấy đã được nếm hương vị của chánh Pháp (samma dhamma vipassato).
Yato yato sammasati, khandhanam udayabbayam, labhati piti pamojjam amatam tam vijanatam. ~Dhpd 374
Mỗi khi quán sát ngũ uẩn, thấy được sanh diệt (yato yato sammasati, khandhanam udayabbayam), vị ấy cảm nhận được hỷ lạc và vị ngọt của Pháp (labhati piti pamojjam). Đó là liều thuốc bổ cho những người có trí (amatam tam vijanatam). Họ cảm nghiệm được đây chính là con đường đưa đến giải thoát và tin tưởng pháp hành này chính là pháp hành dẫn đến giải thoát.
Bạn đã chắc chắn về điều đó. Đó là lý do tôi nói với các bạn khi đạt đến giai đoạn này là bạn đã đi đúng đường, đã ở trong chánh đạo. Bạn đã thực sự học được cách hành thiền; pháp hành của bạn đã vững mạnh. Giai đoạn này được gọi là balava-vipassana; balava nghĩa là rất vững mạnh. Trước giai đoạn này được gọi là taruna-vipassana; taruna có nghĩa là còn non yếu, chưa lớn mạnh, chưa chín muồi. Ở giai đoạn này tuệ quán Vipassana đã chín muồi.
Một điều khác có thể làm hành giả xao lãng ở giai đoạn này là: vì có rất nhiều đức tin trong pháp hành, đã kinh nghiệm được hỷ lạc, sự nhẹ nhàng khinh an và giải thoát, nên vị ấy muốn kể cho những người khác và khuyến khích họ hành thiền.
“Hành thiền đi, bỏ hết mọi công việc đi, những việc đó bạn đã làm quá lâu rồi, bỏ hết đi mà hành thiền”. Vị ấy muốn khuyến khích và dạy dỗ mọi người. Nhưng nếu làm như vậy, bạn sẽ phả hỏng thành quả thiền tập của mình. Đừng dừng lại để đi dạy dỗ người. Hãy tiếp tục thực hành. Cũng đừng đi khuyến khích người khác. Bạn có thể làm việc đó về sau này. Nhưng thật khó để không làm điều đó; rất khó cưỡng lại.
Ở giai đoạn này bạn nhận ra tâm chánh niệm và đề mục, chúng đến với nhau và xúc chạm nhau. Đề mục đến và quất vào tâm. Sự tiếp xúc giữa tâm và đề mục trở nên rất rõ. Trước khi đạt đến giai đoạn này chúng ta không hiểu được phassa-xúc là gì. Chúng ta đã nghe và suy nghĩ về nó nhưng chưa thực sự kinh nghiệm được nó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này chúng ta thực sự nhận biết rõ ràng sự tiếp xúc giữa tâm và đối tượng. Ví dụ, ở trước giai đoạn này giống như ném một quả bong tennis vào tường. Nó đụng vào tường và bật trở lại. Khi đạt đến đây, nó giống như ném một quả bong rất dính. Khi đụng phải đối tượng, nó liền dính chặt ở đó. Chánh niệm không hề xao lãng hay lang thanh đi đâu cả. Trước kia, chúng ta phải cố gắng tìm đề mục để chánh niệm, đến giờ chúng ta không phải làm điều đó. Đối tượng tự đến với tâm, đến với chánh niệm và chánh niệm luôn có sẵn ở đó. Tuy nhiên, bởi vì có quá nhiều hứng thú, hỷ lạc, tinh tấn và sáng suốt nên chúng ta bị dính mắc vào trạng thái đó và không muốn ngừng hành thiền, mặc dù về một mặt nào đó thì rất tốt, vì chúng ta không lười biếng hay xao lãng nữa, song mặt khác chúng ta lại bị dính mắc với nó. Hầu hết chúng ta không nhìn ra được đó là dính mắc.
Chúng ta chỉ nghĩ “Tôi rất hạnh phúc khi hành thiền, tôi thích hành thiền”. Làm sao phân biệt được? Khi không còn kinh nghiệm được những điều ấy nữa, chúng ta cảm thấy không vui, “Tôi muốn có nữa, làm thế nào để tôi có lại được”. Đây là những dấu hiệu cho thấy bạn đang bị dính mắc vào nó. Bạn càng muốn có, lại càng khó đạt được. Nó là một thứ rất xảo quyệt. Ở giai đoạn này, điều quan trọng là bạn phải quan sát tác ý của mình. Nhìn rõ tâm mình để thấy: “Bây giờ tôi đang cố làm điều gì? Có phải đang cố để lấy lại trạng thái đó không?
Đôi lúc, bạn phải ra ngoài, kiếm cái gì đó ăn chẳng hạn, và không nhiều thì bạn cũng bị phân tán, xao lãng mất một lúc. Khi ăn xong, bạn quay lại hành thiền và mong là sẽ trở lại được trạng thái cũ, sự mong đợi đó là một chướng ngại.
Mỗi khi hành thiền chúng ta phải tự nhắc nhở mình: “Tôi không cố gắng làm điều gì cả. Tôi không cố đạt đến chỗ nào. Không cố kinh nghiệm lại những điều đã kinh nghiệm trước kia; chỉ chánh niệm trên cái đang diễn ra bây giờ”. Điều này rất đơn giản. Cái chúng ta làm không phải là cố để đạt được cái gì hay đến được một chỗ nào đó. Cái chúng ta làm là Ở ĐÂY VÀ BÂY GIỜ, chú ý vào bất cứ những gì đang diễn ra trong hiện tại.
Tuy vậy, mặc dù đã được thiền sư cảnh báo nhiều lần, nhưng khi mọi việc diễn ra như thế chúng ta vẫn bị dính mắc, vẫn hiểu sai về nó. Đây là một điều chúng ta phải vượt qua. Điều quan trọng nhất là không được kẹt lại ở đó. Khi điều này xảy đến, nếu bạn ở bên cạnh thiền sư thì hãy trình pháp với thiền sư, thiền sư sẽ nói: “Hãy nhìn xem, con đang bị dính mắc đấy, trước hết hãy quan sát chính sự dính mắc ấy đã”. Thiền sư sẽ không nói: bạn phải từ bỏ dính mắc, bởi vì nếu chưa nhìn ra dính mắc thì làm sao mà từ bỏ được? Dính mắc xảy đến một cách rất vô thức. Điều đầu tiên bạn cầm làm là phải nhận thức được nó đã.
Lời khuyên này có ý nghĩa rất lớn. Chúng ta muốn vượt qua được bất cứ điều gì thì trước hết phải ý thức được nó đã. Không ý thức được nó, chúng ta sẽ không thể vượt qua được, dù nó là cái gì chăng nữa. Thiền sư sẽ khai thị cho bạn: “Hãy nhìn vào tâm mình để thấy được sự dính mắc đó”. Nếu bạn thấy được nó, một thời gian nó sẽ yếu đi và biến mất, nhưng nó sẽ còn quay lại, bạn nhìn, nó biến mất và rồi lại quay trở lại. Sau một vài lần nó sẽ đi hẳn và không còn quay lại nữa.
Bạn sẽ hiểu ra dính mắc vào những trạng thái an lạc, những kinh nghiệm tốt này không phải là chánh đạo. Dính mắc là tà đạo, bất kể là dính mắc vào cái gì. Ngay cả kinh nghiệm trong thiền, một khi dính mắc vào chúng là bạn đã đi vào đường tà. Nếu thấy và vượt qua được những dính mắc đó, bạn sẽ hiểu rằng: chú ý vào bất cứ những gì đang diễn ra trong hiện tại, nơi thân tâm mình, đó chính là chánh đạo.
Tri kiến này được gọi là Đạo Phi đạo Tri kiến Tịnh (Maggamagga-nanadassana-visuddhi). Magga là đạo, con đường; amgga là phi đạo, thấy được đâu là đạo, đâu là phi đạo. Thấy được hai điều này một cách thật rõ ràng chính là một loại thanh tịnh của tâm, Tri kiến tịnh-nanadassana-visuddhi, visuddhi là thanh tịnh hóa.
Tất cả chúng ta, lúc này lúc khác, đều có khi lạc vào đường tà, nhưng cũng không sao, điều đó sẽ phải xảy ra, chúng ta thấy rõ điều đó và rồi quay lại chánh đạo. Phạm sai lầm, học được một bài học từ đó, tự sửa mình và tiếp tục làm điều đúng đắn, tốt đẹp. Đó là cách chúng ta học hỏi và trưởng thành.
Không phạm sai lầm và không sửa chữa sai lầm chúng ta sẽ không thể học hỏi và trưởng thành được. Như vậy phạm sai lầm thì cũng được, không sao cả! Song đừng để sai lầm cũ lặp đi, lặp lại hoài.
Tôi sẽ tóm lược một cách ngắn gọn lại như sau. Ở giai đoạn đầu tiên của thiền tập, trước tiên bạn thấy được tính chất tự nhiên của các hiện tượng thân, tâm. Sau đó, chúng ta sẽ thấy một cách tổng quát vô thường, bất toại nguyện và không có linh hồn, không có thực thể thường hằng vĩnh cửu nào, không thể làm chủ và trống rỗng. Sau nữa, chúng ta thấy sanh diệt một cách rất sắc bén và rõ ràng. Sau đó bạn sẽ thấy được sự diệt. Khi mới thấy sanh diệt, chúng ta chỉ thấy được sự sanh nhưng không thấy sự diệt. Trước khi thấy một hiện tượng cũ diệt đi, chúng ta đã thấy một hiện tượng khác sanh lên; nó cứ tiếp tục như thế; một sự việc sanh lên, rồi lại một sự việc khác nữa sanh lên. Sau đó chúng ta thấy sự sanh diệt, rồi đến một khoảng trống, rồi đến một sanh diệt nữa, rồi lại một khoảng trống. Chúng ta cũng thấy được cả khoảng trống đó. Sau một thời gian, bạn chỉ còn chú ý đến sự diệt, không chú ý nhiều đến sự sanh như trước nữa. Ở giai đoạn này, vô thường sẽ trở nên ngày càng rõ, mọi thứ đều diệt đi rất nhanh chóng.
Khi thấy vô thường thật rõ, trong tuệ giác đó bạn cũng thấy bất toại nguyện, vì sao? Bởi vì nó sanh diệt quá nhanh, làm sao có thể tìm được chút toại nguyện nào trong đó, làm sao có thể nương tựa vào chúng được?
Bạn có thể thấy rằng mỗi khoảnh khắc đều là sự sống và cái chết. Bạn không thể giữ lại cái gì, không có gì bạn có thể bám víu, bởi vì mọi thứ đều sanh diệt quá nhanh, chúng không chịu sự điều khiển của bạn.
Mọi kinh nghiệm, mọi cảm giác, mọi tư tưởng, mọi sát na tâm, ngay cả tâm chánh niệm này, tất cả đều không ngừng hoại diệt.
Như vậy, ở giai đoạn này sự hành thiền của bạn đã trở nên rất hoàn chỉnh. Bạn thấy đề mục sanh diệt. Bạn thấy tâm sanh diệt. Bạn thấy tâm thiền đang kinh nghiệm, đang hay biết tuệ quán Vipassana này, ngay cả tâm chánh niệm này cũng đều sanh diệt. Lúc đầu chúng ta thấy những hiện tượng của thân không phải là tôi, không phải của tôi; cái suy nghĩ này không phải là tôi, không phải của tôi. Song bạn vẫn thấy có tâm chánh niệm; nó chính là tôi, tôi đang hành thiền, tôi đang thấy, tôi đang chánh niệm. Khi đạt đến giai đoạn này, bạn thấy ngay cả tâm thiền, ngay cả tâm chánh niệm này cũng diệt. Có một ví dụ để diễn tả điều này như sau. Khi hỏa thiêu một xác chết, lúc đầu bạn phải dùng một que cời dài để lật cái xác. Khi xác đã thiêu xong, bạn vứt bỏ que cời đi, vứt bỏ, không giữ lại gì cả, bạn không thể giữ lại cái gì.
Ngay cả tâm thiền, tâm chánh niệm cũng quy về vô thường; nó cũng là vô thường. Chỉ khi đó thì “tri kiến về vô thường” mới đầy đủ.
Nếu bạn vẫn còn thấy bất cứ phần kinh nghiệm nào là của mình, thì bạn vẫn chưa hoàn toàn hiểu và kinh nghiệm được vô thường thực sự. Ngay cả tâm chánh niệm và tuệ giác cũng sanh và diệt, hành giả có thể lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy. Trong kinh điển có nói rằng bạn nên lặp lại 10 lần, nhưng không nhất thiết phải làm quá nhiều như vậy. Đối tượng, tâm và tuệ giác, thấy cả ba đều sanh diệt, quán sát tuệ giác đó lại 10 lần, song không cần phải đến tận 10 lần. Quán sát tuệ quán Vipassana này (vipassana-nana) và thấy nó là vô thường được gọi là pativipassana. Tuệ quán vipassana đầu tiên được gọi là vipassana; quán sát tuệ vipassana đó, trí tuệ thấy được nó là vô thường được gọi là pativipassana. Chính tuệ vipassana này lại trở thành đề mục của thiền vipassana. Tôi nghĩ như vậy là đã khá rõ vấn đề này rồi, đúng không?
Ngay cả trí tuệ cũng vô thường, ngay cả chánh niệm cũng vô thường, ở giai đoạn này bạn có thể thấy rõ điều đó. Thậm chí bạn cũng không tự đồng hóa mình với tâm chánh niệm nữa, cũng như sau khi thiêu xác xong thì bạn đốt luôn que cời.
Tuần tới tôi sẽ nói chi tiết về tuệ thứ 5, Bhanga-nana, Tuệ Diệt. Sau tuệ thứ tư, mọi việc sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Nếu các bạn có câu hỏi nào về tầng tuệ thứ tư này hoặc bất cứ điều gì chưa rõ, xin cứ hỏi.
Hỏi & đáp: Tuệ giác thứ nhất được gọi là Nama-rupa-pariccheda-nana, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc (1), thấy danh chỉ như một tiến trình, tâm là một tiến trình và sắc, thân vật lý là một tiến trình. Thấy nó không phải là một chúng sanh, không phải đàn ông hay đàn bà, không màu sắc, dáng hình. Cứng chỉ là cứng; bạn không thể nào nói tính chất cứng này là của đàn ông hay của đàn bà được. Cứng chỉ là cứng; mềm chỉ là mềm, chuyển động chỉ là chuyển động, nó không phải là đàn ông hay đàn bà.
Những hiện tượng này không có hình thể, dáng điệu, chúng chỉ là các tính chất. Xin hãy chú ý đến điều này. Khi hành thiền chúng ta chỉ chú ý đến các tính chất, bất cứ tính chất nào cũng không phải là một chúng sanh.
Danh cũng vậy, bạn có thể thấy nó chỉ là những hiện tượng tâm lý; nó không phải là một chúng sanh; tham không phải là đàn ông hay đàn bà; tham chỉ là ham muốn một cái gì đó. Dù nó xảy ra ở các bạn hay ở trong tôi, nó cũng chỉ là một tính chất “ham muốn”.
Tham cái này hay tham cái kia, điều đó không thành vấn đề, nó chỉ thể hiện bản chất của lòng tham.
Bất cứ một trạng thái tâm nào cũng chỉ là một trạng thái tâm, không phải là chúng sanh, không phải một thực thể, không phải đàn ông hay đàn bà. Thấy rõ danh sắc được gọi là Nama-rupa-pariccheda-nana, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Có hai thứ cùng diễn ra. Một là danh và cái kia là sắc.
Sau đó bạn có thể thấy nguyên nhân của những hiện tượng thân tâm này; đó gọi là Paccaya-parigaha-nana, Tuệ Phân Biện Nhân Duyên (2). Sau đó bạn thấy được vô thường, khổ, vô ngã một cách tổng quát, đó gọi là Sammasana-nana, Tuệ Thẩm Sát (3). Ở giai đoạn này sẽ có rất nhiều suy nghĩ về Pháp sinh khởi, suy nghĩ về danh, sắc, về vô thường, khổ, vô ngã. Sau giai đoạn này, các suy nghĩ như vậy sẽ không còn nữa. Bạn thấy mọi thứ sanh và diệt một cách rất sắc bén, rất rõ ràng; đó được gọi là Udayabbaya-nana, Tuệ Sanh Diệt, là tầng tuệ thứ tư (4). Tầng tuệ thứ năm được gọi là Bhanga-nana, Tuệ Diệt (5): tan hoại, biến mất.
Hỏi & đáp: Chưa, chưa đâu, mới chỉ được có nửa đường thôi. Song thực ra đây mới chính là sự khởi đầu thực sự của thiền Vipassana. Một yêu cầu để giác ngộ là phải thấy sanh diệt thật rõ ràng. Đây là giai đoạn cao của thiền vipassana, giai đoạn balava-vipassana.
Hỏi & đáp: Theo thứ tự, đúng vậy, các tầng tuệ xảy đến theo trình tự, song một số người tiến rất chậm và dừng lại ở một tầng tuệ rất lâu, rồi lại tiến rất nhanh ở một tầng tuệ khác và lại chậm lại ở một tầng tuệ khác nữa. Nó xảy ra như vậy, nhưng vẫn phải xảy ra theo thứ tự, theo đúng trình tự như thế này. Không phải tất cả mọi người đều kinh nghiệm y hệt như nhau. Một số người phải mất rất nhiều thời gian ở tầng tuệ đầu tiên, tầng tuệ thứ hai và thứ ba thì lại rất nhanh, và có thể lại cần rất nhiều thời gian để phát triển tuệ thứ tư. Trong thực tế, tuệ thứ nhất phải mất nhiều thời giạn để phát triển, tuệ thứ hai và thứ ba không cần lâu đến như vậy. Tuệ thứ tư cần một số thời gian để phát triển bởi vì có khá nhiều trở ngại, nhiều sự dính mắc và xao lãng trong quá trình kinh nghiệm của hành giả. Sau đó nó có thể nhanh hơn cho đến một giai đoạn khác hành giả sẽ bị kẹt lại. Tôi sẽ nói đến giai đoạn đó sau. Đây là trình tự phát triển các tầng tuệ giác.
Hỏi & đáp: Nếu không tiếp tục thực hành bạn sẽ mất hết các tuệ đã có. Trong hầu hết trường hợp, bạn sẽ quay lại tuệ thứ nhất, song sẽ không hoàn toàn trắng tay về số 0.
Hỏi & đáp: Điều đó có nghĩa là khi bạn đã vượt qua giai đoạn giác ngộ đầu tiên. Còn trước đó bạn vẫn có thể mất các tuệ giác đã đạt được. Song ngay cả khi mất nó, bạn vẫn giữ lại được một trí tuệ sâu sắc và ngay cả khi bạn chết, kinh nghiệm này vẫn có sức mạnh rất lớn. Tuy nhiên bạn vẫn có thể phục hồi lại. Đừng nản lòng. Ngay cả khi bạn đã ngừng hành thiền, bạn cũng không còn bị mê mờ, lẫn lộn được nữa; bạn vẫn giữ được một mức chánh niệm nào đó và khi hành thiền trở lại, bạn sẽ phát triển nó một cách dễ dàng.
Hỏi & đáp: Một mức độ chánh niệm nào đó, đúng vậy. Chỉ có định (Samadhi) thuần túy bạn sẽ không thể thấy được vô thường. Bạn chỉ có thể thấy được tính chất, nhưng sẽ không thấy được sanh diệt. Bạn có thể trụ tâm trên một khái niệm nào đó, hoặc thậm chí có thể trụ tâm vào hư không. Tôi đã thử làm như vậy một thời gian dài và rất thích nó. Bạn có biết tại sao quan hư không lại tốt như vậy không? Hư không không làm cho bạn đau khổ. Đúng, bạn có thể làm như thế, nhưng khi bạn dính mắc vào nó và không đạt được nó, bạn sẽ thấy đau khổ. Nhưng nếu tiếp tục thực hành, bạn sẽ thể nhập vào trạng thái đó rất nhanh chóng.
Hỏi & đáp: Bạn phải tiếp tục thực hành.
Khi đã đạt đến tầng tuệ thứ tư bạn sẽ không thể phạm sai lầm nữa. Bạn biết cần phải làm gì. Đó là lý do phần cuối tôi nói là bạn biết “đâu là đạo” và cũng biết “đâu là phi đạo”.
Bạn không thể phạm sai lầm được nữa; cứ tiếp tục như vậy bạn sẽ tới được chỗ đó. Điều đó thật là nhẹ nhõm, bởi vì trước đó bạn không chắc chắn về điều mình đang làm, “có thể mình đang phạm sai lầm, không biết thế này là đúng hay sai”.
Hỏi & đáp: Đừng, đừng định ra một thời hạn cụ thể nào cả. Điều đó phụ thuộc vào độ rõ ràng, sáng suốt và cả độ chín của bạn nữa. Một số người cần rất nhiều thời gian để phát triển một tuệ giác đến độ chín của nó. Thậm chí ngay cả trong một tầng tuệ cũng có nhiều tầng mức khác nhau, tầng tuệ thứ tư này chẳng hạn cũng có một phạm vi rất rộng. Ở giai đoạn đầu của nó, bạn thấy sanh diệt và có rất nhiều suy nghĩ. Khi tiếp tục tiến triển thì sanh diệt ngày càng trở nên rõ hơn, và sau một thời gian bạn sẽ thấy nó vượt qua được chỗ đó và bạn thấy được sự diệt, thấy tan rã, hoại diệt nhiều hơn nữa.
Mỗi tầng tuệ đều có một dải phạm vi, nó không chỉ phụ thuộc vào yếu tố thời gian, mà chất lượng thiền tập của bạn cũng rất quan trọng.
Hỏi & đáp: Nếu có thể phát triển các tầng thiền an chỉ định thì bạn có thể sử dụng an chỉ định đó để thực hành vipassana. Với sự giúp sức của định lực thâm hậu, bạn sẽ tiến bộ rất nhanh, bởi vì khi đã có một nội tâm rất tập trung và định tĩnh, tâm sẽ không bị phân tán nữa. Song để phát triển cá tầng thiền an chỉ định là một việc rất khó. Có hai cách thực hành, cách thứ nhất là phát triển thiền an chỉ định trước, rồi sau đó chuyển sang thực hành thiền vipassana. Cách này được gọi là samatha-yanika, nghĩa là đi bằng phương tiện thiền an chỉ định. Tuy nhiên, trong thiền vipassana thuần túy, đạt đến tầng tuệ thứ tư là bạn đã phát triển được một mức định đủ mạnh, tương đương với các thiền an chỉ định. Chánh niệm lúc đó rất mạnh.
Khi chánh niệm rất mạnh, định tâm cũng trở nên thâm hậu. Cả hai đều tương đương nhau về tính chất. Bạn không nhất thiết phải phát triển các tầng thiền an chỉ định.
Hỏi & đáp: Tôi không thể nói cho bạn một cách chính xác tại sao Đức Phật làm vậy, song đối với thiền vipassana, nếu phát triển được định nó sẽ giúp ích rất nhiều. Song nếu không thể phát triển được các tầng thiền an chỉ định, bạn vẫn có thể thực hành được thiền vipassana. Cách này được gọi là sukkha-vipassana (khô tuệ), tức là thiền vipassana không có an chỉ định. Như vậy có hai cách thực hành, cách thứ nhất là phát triển các tầng thiền định trước rồi chuyển sang vipassana sau. Cách thứ hai không cần phát triển các tầng thiền an chỉ định mà vào thẳng thiền vipassana; bạn có thể thực hành theo một trong hai cách đó.
Hỏi & đáp: Khi thực hành thiền an chỉ định, bạn lấy gì làm đề mục thiền cho mình? Đó là một loạt khái niệm, một ý niệm hay một hình ảnh. Chẳng hạn khi thực hành thiền tâm từ, bạn có thể phát triển các tầng thiền, song đề mục thiền của bạn là một người nào đó, bản thân đề mục nó cũng là một loại thực tại, gọi là samumuti-sacca, thực tại chế định. Khi muốn hành thiền vipassana, bạn phải từ bỏ khái niệm hay ý niệm về người đó và chuyển sang quán sát các hiện tượng của thân hoặc tâm. Đối với các hành giả thực hành thiền an chỉ định, sau khi đã phát triển các tầng thiền định, hầu hết tất cả đều vào thẳng niệm tâm (cittanupassana), chứ không phải qua niệm thân nữa (kayanupassana), bởi vì sau khi xuất thiền, họ sẽ quán sát chính tâm thiền đó cùng các đặc tính của nó. Họ bỏ đề mục thiền định và quan sát ngay chính tâm thiền đó.
Theo: Bản đồ hành trình tâm linh
Tác giả: Sayadaw U Jotika
Mời bạn đọc đón xem chương 8, phần 1 : Từ tuệ thứ năm đến tuệ thứ mười: Từ Tuệ Diệt đến Tuệ Thấy Nguy Hiểm, Tuệ Kinh sợ, Tuệ Yếm ly, Tuệ Muốn Giải thoát và Tuệ Giản trạch.