Tuệ giác thứ ba
Tuệ tri vô thường, khổ, vô ngã bằng kinh nghiệm trực tiếp
Hỏi & đáp: Đó là một câu hỏi rất hay, rất cảm ơn bạn đã hỏi điều đó. Chúng ta hiểu Hydro nghĩa là gì? Chúng ta cho rằng Hydro là một cấu trúc giả thiết, một mô hình của một nguyên tử với một hạt neutron, một hạt proton và một điện tử, nhưng khi chúng ta nhìn vào một nguyên tử hydro này, chúng ta sẽ thấy ngay cả một nguyên tử cũng luôn biến dịch. Bởi vì chúng biến đổi quá nhanh nên dường như chúng cũng vẫn y như cũ. Nếu nhìn sâu hơn vào cấu trúc nguyên tử của Hydro, bạn sẽ thấy ngay cả hạt điện tử này cũng luôn luôn thu nhận thêm photon và phát ra những photon mới. Luôn luôn cho và nhận, nhận vào photon và cho ra photon, vì thế mức năng lượng của hạt điện tử luôn thay đổi. Chúng ta không thể nghĩ về điện tử như một vật thể cố định. Tôi đã từng nhiều năm học và nghiên cứu vật lý và tôi rất thích môn này. Tôi còn nhớ một nhà vật lý học, một người tôi rất thích, đó là Richard Feynman, nhà bác học đoạt giải thưởng Nobel và là một thành viên của NASA[1], ông mới mất gần đây (tôi biết có nhiều nhà vật lý khác cũng nói y hệt như vậy). Ông nói: “Điện tử không phải là một vật thể, nó là một mô hình giả thiết, chỉ có năng lượng và năng lượng đó luôn luôn biến đổi”. Nếu nhìn sâu vào hạt nhân cũng vậy, bạn sẽ thấy ngay trong bản thân hạt nhân, những hạt neutron và proton cũng luôn luôn cho và nhận năng lượng. Không có gì là giữ nguyên cả, song nếu nhìn toàn thể bức tranh thì dường như nó vẫn giữ nguyên không hề biến đổi. Nếu nhìn vào chỉ số năng lượng, bạn sẽ phát hiện ra là nó luôn thay đổi. Chúng ta không thể nghĩ về bất cứ cái gì như là một “vật thể” được, cả vũ trụ này là một tiến trình, không phải là vật thể. Khi nhìn một cái gì đó như là một vật thể, nó dường như không thể thay đổi, nhưng nếu nhìn vào điện tử, các hạt neutron, proton như là một tiến trình, bạn sẽ thấy chúng luôn luôn biến đổi. Khi kết hợp với nhau cũng vậy, chúng cũng biến đổi. Thậm chí chúng còn thay đổi cả về bản chất, tính chất tự nhiên và cá biệt của nó nữa. Tính chất tự nhiên và cá biệt của Hydro và Oxi không giống nhau, khi kết hợp hai nguyên tố này sẽ được một tính chất mới. Ngay cả cái mới đó cũng không giữ nguyên trong mọi lúc.
Trong thiền Vipassana, chúng ta chỉ nói về các tính chất, chứ không đề cập đến một “sự vật” nào, bởi vì không có cái gì là một “sự vật” cả. Chúng ta không bao giờ có thể nói về một “sự vật” nào đằng sau các tính chất được. Chúng ta chỉ có thể nghĩ về chúng mà thôi.
Mục đích của thiền Vipassana là: hành thiền để trở nên buông xả, yếm ly, tách rời. Chúng ta dính mắc vào mọi thứ và đó là lý do chúng ta đau khổ.
Chúng ta dính mắc vào những gì? Chúng ta dính mắc với những điều mình kinh nghiệm được. Chúng ta không thể dính mắc vào những điều mình chưa hề biết. Chúng ta dính mắc vào hình sắc, âm thanh, mùi vị. Bất cứ cái gì có liên quan đến “cái tôi”, chúng ta cũng dính mắc. Khi xem xét những kinh nghiêm trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta sẽ thấy không có kinh nghiệm nào bền lâu. Đây là điểm rất quan trọng.
Không cần phải thấy ra được: không có gì tồn tại lâu, mà điều cần phải thấy được là không có kinh nghiệm nào tồn tại lâu cả.
Kinh nghiệm là vô thường; bạn có đồng ý về điểm này không? Đây là điều quan trọng nhất cần biết, ngoài kinh nghiệm ra thì còn có cái gì mà ta có thể thực sự chắc chắn được? Chúng ta không thể chắc chắn về bất cứ một điều gì cả. Ngay cả các lý thuyết vật lý cũng đang còn phải xác định và thay đổi. Các nhà vật lý học thậm chí còn không thể chắc chắn là điện tử có tồn tại hay không nữa. Tôi được học hành để trở thành một kỹ sư điện tử và tôi suy nghĩ: “điện là cái gì nhỉ?” Người ta nói điện là các hạt điện tử đang chuyển động, còn tôi nói: “vậy điện tử là cái gì?” Tôi đã nhìn sâu, nhìn sâu hơn nữa vào những hạt điện tử này và cho đến tận bây giờ tôi vẫn không thể tìm ra được câu trả lời thực sự. Điều này đối với tôi vẫn còn rất thú vị.
Trong thiền Vipassana, chúng ta nhìn vào kinh nghiệm trực tiếp, bởi vì đó chính là cái chúng ta bị dính mắc. Chúng ta hiểu thế nào về cái “tôi”? Chỉ là những kinh nghiệm được ráp nối lại với nhau và chúng ta gọi nó là “tôi”. Không có kinh nghiệm sẽ chẳng có cái “tôi” nào cả.
Khi một tâm bất thiện khởi lên, hành giả thấy nó như là một tâm bất thiện và nó diệt mất cũng như là một tâm bất thiện, không hề thay đổi bản chất. Không thay đổi về bản chất là một điểm hết sức quan trọng. Điều đó nghĩa là: tâm bất thiện không trở thành tâm thiện và ngược lại, tâm thiện không thể biến thành tâm bất thiện. Ở tầng tuệ này, hành giả sẽ thấy điều này rất rõ ràng và sâu sắc.
Khi thấy được sanh diệt, bạn sẽ thấy mỗi khi một tư tưởng đau khổ sanh khởi trong tâm, rồi nó cũng phải diệt. Bạn không cần phải làm gì với nó. Ngay cả đối với tâm tham, bạn cũng chỉ cần quan sát, rồi nó cũng sẽ diệt mất. Không cần phải làm gì cả.
Bạn không bắt buộc phải hành động, cũng không cần phải tuân lệnh nó. Bạn có quyền lựa chọn.
Nếu bạn thấy rằng điều này là đúng đắn, nên làm thì hãy thực hiện. Song bạn cũng không bị bắt buộc phải làm điều đó; nếu không như vậy thì hẳn là chúng ta sẽ buộc phải làm rất nhiều việc trên đời.
Chúng ta bị bắt buộc, không có sự lựa chọn, chúng ta thấy cái gì đó và khởi tâm tham, khi đó không còn lựa chọn nữa. Chúng ta nghe điều gì đó và khởi buồn bực, khi đó cũng không có lựa chọn. Nhưng khi nhìn được tâm mình, chúng ta sẽ có quyền lựa chọn. Không tham lam, không buồn bực; chúng ta được tự do. Đó quả là một sự tự do vô cùng lớn.
Ở giai đoạn này, có rất nhiều điều quan trọng cần phải ghi nhớ. Thứ nhất là không được suy nghĩ quá nhiều. Nhìn kỹ hơn vào sự diệt của các hiện tượng, bởi vì chúng ta đã thấy được cả 3 quá trình sanh, trụ và diệt. Ở thời điểm này, hãy chú ý đến sự diệt. Khi nó diệt mất, sẽ có một khoảng trống và một đối tượng khác xuất hiện, đối tượng đó diệt và lại có một khoảng trống, một khoảng cách tiếp theo.
Chú ý hơn đến sự diệt của các hiện tượng, bạn sẽ phát triển chánh niệm sắc bén hơn, sự quán sát của bạn cũng trở nên sâu sắc hơn. Trau dồi cánh niệm sắc bén hơn là điều rất quan trọng. Nếu bạn suy nghĩ quá nhiều, chánh niệm sẽ bị cùn nhụt đi.
Bạn cũng nên chọn môi trường, tạo điều kiện, hoàn cảnh thích hợp để hỗ trợ cho tuệ giác được vững mạnh hơn. Nơi bạn sống và thực phẩm bạn ăn rất quan trọng. Ăn loại thức ăn thích hợp và ăn vừa phải; ngủ quá nhiều cũng làm cho chánh niệm mất sắc bén. Bạn cần ngủ vừa đủ, ít nhất là 4 tiếng mỗi ngày, mức như vậy là tương đối đủ. Người hành thiền thường chỉ cần ngủ 4 tiếng mỗi ngày mà vẫn khỏe mạnh. Không nhìn, không nghe những đối tượng không thích hợp. Nghĩa là, khi bạn thực sự muốn hành thiền thì đừng xem TV, đừng đọc sách báo hay làm bất cứ điều gì gây xáo động cho tâm. Không nghe quá nhiều thông tin. Tránh nói chuyện; chúng ta không thể nào sống mà không nói chuyện, nhưng trong thời gian hành thiền tích cực thì càng ít nói càng tốt, nếu có nói thì chỉ nên nói về Pháp. Điều này sẽ giúp bạn phát triển chánh niệm sâu sắc hơn. Giao du với những người chánh niệm, những người thành tâm giữ chánh niệm. Nếu bạn quan hệ với những người không thực tâm thực hành mà chỉ thích nói về nó thôi, chánh niệm của bạn sẽ mất đi sự sắc bén và tính liên tục. Khí hậu thích hợp cũng rất quan trọng. Nếu bạn sống ở nơi quá nóng bức thì cũng khó phát triển được định và niệm thâm sâu, ở nơi quá lạnh cũng không thích hợp. Nhiệt độ nên vừa phải, dễ chịu. Không đi đến những nơi có thể trở ngại cho sự hành thiền của bạn. Bạn phải xem xét xem “đó có phải là nơi thích hợp không?” Ngay cả đi đến những nơi thích hợp, bạn cũng phải cân nhắc đến thời gian. Đi vào lúc nửa đêm chẳng hạn thì cũng không thích hợp. Điều bạn nói và người bạn nói chuyện cũng là rất quan trọng. Bạn cũng cần phải điều chỉnh các oai nghi, tư thế của mình cho phù hợp. Nằm quá lâu cũng làm mất sự sắc bén của chánh niệm. Hãy cố gắng điều chỉnh những điều này. Giữ gìn sự tỉnh thức, sáng suốt và quân bình.
Một cách tự nhiên hành giả sẽ nhận ra rằng có chánh niệm trong hiện tại sẽ giúp mình thấy mọi việc rõ ràng hơn. Điều này rất dễ nhận thấy. Nếu bạn giữ tâm mình ngay trong hiện tại, nó sẽ an trú ở đó nhiều hơn, chánh niệm và tỉnh giác sẽ mạnh hơn.
Đôi lúc tâm trở nên lười biếng (điều này có xảy ra), hành giả phải tự sách tấn mình. Tự sách tấn mình là rất quan trọng. Nếu bạn có một người bạn tốt, một người thầy tốt, họ sẽ giúp bạn có thêm tinh tấn tu tập. Song tự sách tấn, khích lệ bản thân vẫn là điều quan trọng nhất. Hãy nghĩ rằng bạn đang có một cơ hội rất tốt để được hành thiền. Tôi đã từng gặp nhiều người, một vài người trong đó thực ra là bạn tôi, tôi khuyến khích họ hành thiền, rất nhiều lần họ nói: “Tôi bận quá, tôi phải làm việc rất nhiều, phải cáng đáng bao nhiêu là trách nhiệm, tôi mới được thăng chức mấy ngày trước và đang phải học cách gánh vác trách nhiệm mới, tôi không có thời gian đâu”.
Một người nói với tôi là ông ta không có thời gian; ông ta lớn hơn tôi một tuổi và đã chết 5 – 6 năm nay rồi. Tôi luôn giục giã, nhắc nhở ông ta: “hãy tập thiền đi, hành thiền ngay đi, khi mà anh vẫn đang còn có thời gian”, ông ta luôn trả lời là quá bận, không có thời gian. Một ngày nọ, ông ta chợt thấy vô cùng mệt mỏi, không còn chút sức lực nào. Ông ta đến bệnh viện khám và phát hiện ra bị ung thư thận. Ông phải mổ và cắt một bên thận, sau đó phải nghỉ một thời gian dài, rồi xuất gia, cố tập hành thiền trong một tháng và cảm thấy khá hơn một chút, có thể là do phẫu thuật cộng với thuốc thang và cũng có thể là do hành thiền. Ông quay trở lại làm việc và nghĩ rằng thế là căn bệnh ung thư đã được chữa khỏi. Ông ta lại bận túi bụi và không có thời gian để hành thiền nữa. Khoảng 2 năm sau ông ngã bệnh trở lại và đi khám, lần này một quả thận còn lại bị ung thư nốt và ông phải nhập viện. Mỗi tuần hai lần tôi đến bệnh viện thăm ông, có khi chỉ được một lần, và khích lệ ông ta hành thiền; bạn có biết ông ta làm gì ngay cả lúc đang nằm trên giường bệnh không? Ông ta nằm xem TV. Thật là một con người đáng thương; ông ta ngày càng yếu hơn và tôi bảo ông ta hành thiền. Có lúc, tôi ngồi sát bên cạnh và nói: “hãy hành thiền ngay bây giờ đi”. Tôi chỉ dẫn cho ông ta cách thực hành, ông ta cố gắng hành thiền và nói rằng lúc đó ông cảm thấy rất hạnh phúc và bình an, tôi nói: “Tôi phải đi bây giờ đây; hãy cố gắng hành thiền mỗi ngày một vài lần như thế nhé!”. Sau đó tôi hỏi vợ ông ta xem ông ta có chịu hành thiền không, bà ấy nói ông ta không thiền mà chỉ nằm xem TV thôi. Ông ta ngày càng yếu dần. Tôi đến thăm lại nhiều lần nữa và rồi ông ta nói: “Tôi muốn hành thiền, tôi muốn hành thiền”, nhưng vì phải uống quá nhiều loại thuốc, chúng làm ông rất lờ đờ, buồn ngủ và không thể tỉnh táo được. Ông nói: “Tôi đã cố gắng hành thiền, nhưng mà buồn ngủ quá”. Ngay trước khi ông ta chết, tôi đến thăm một lần nữa và ông ta nói: “Đối với tôi, bây giờ đã quá muộn để hành thiền được nữa rồi”…đã quá muộn! Điều này rất quan trọng, bạn biết không…
Mấy tuần trước, có một người đàn ông đến đây tìm tôi, giữa đêm khuya, anh ta nhấn chuông gọi cửa. Tôi nghĩ chắc phải có chuyện gì quan trọng lắm mới có người gọi cửa vào giờ này. Tôi thấy có hai người đàn ông, tôi mở cửa và hỏi họ vì sao lại đến đâu. Một người nói: “Đây là một người mới đến và anh ta muốn tìm hiểu một chút về thiền”. Tôi nghĩ, được thôi, nếu anh ta thực sự muốn học thì tôi sẵn sàng dạy anh ta. Chúng tôi đi vào nhà và ngồi trong phách này. Tôi nói chuyện với anh ta và chỉ dẫn anh ta cách hành thiền. Anh ta nói: “Tâm tôi rất xáo động, bất an và tôi không thể ngồi được”. Tôi bảo anh ta đi kinh hành lên xuống chỗ này, đi kinh hành thì dễ hơn ngồi thiền, bước từng bước một cách chánh niệm. Tôi hỏi: “Anh đang nghĩ gì thế?” Anh ta đáp: “Tôi đang nghĩ đến ngày mai”; “Anh nghĩ về cái gì của ngày mai?” Anh ta nói anh ta có một vụ kiệm ở tòa và ngày mai anh phải có mặt ở đó. Anh ta rất bất an, và đến đây vào giữa đêm khuya để tập thiền, đó có phải là quá muộn không?
Trước khi bất cứ điều gì xảy đến, cứ hành thiền đi đã; hãy rèn luyện tâm mình trở nên bình an, sáng suốt và buông xả. Rồi ngay cả khi những việc như vậy xảy đến với cuộc đời bạn, bạn sẽ có thể đối phó được với chúng; trong một số trường hợp
bạn còn có thể cải thiện được tình hình nữa.
Do đó, điều rất quan trọng là phải tự sách tấn mình, “Bây giờ tôi đang mạnh khỏe, nếu muốn tôi có thể thu xếp được thời gian”. Điều đó phụ thuộc vào bạn; nếu bạn thực lòng mong muốn thì sẽ tìm ra được thời gian. Nếu không thích, bạn sẽ tìm ra được cả trăm lý do để biện hộ. Có lúc, đang hành thiền, bạn cảm thấy hơi mệt mỏi. Bạn đang hành thiền, và cũng thực lòng muốn hành thiền, song cơ thể trở nên mệt mỏi. Trong trường hợp đó thì hãy nghỉ ngơi, nhưng đừng buông chánh niệm, đừng quá đắm chìm trong ngủ nghỉ!
Một điều nữa rất quan trọng, nhất là đối với các thiền sư, mỗi thiền sư có một quan điểm khác nhau và đôi khi cũng có nhiều tranh luận xảy ra, điều này đúng… điều kia sai… và vân vân…
Một quan điểm trong đó, tiếng Pali là “lakkanam aropetva” ~Vsm607, lakkanam nghĩa là vô thường, khổ, vô ngã. Aropetva nghĩa là đặt lên hàng đầu. Một số người cho rằng câu này nghĩa là bạn phải suy nghĩ, tư duy về nó. Bạn thấy các hiện tượng thân tâm và suy nghĩ về chúng: À, đây là vô thường, đây là khổ, đây là vô ngã, nhiều người nghĩ rằng thế mới đúng. Nghĩa của “lakkhanam aropetva” trước hết là: để đặt một cái gì đó lên hàng đầu, bạn phải có sẵn một cái gì ở đó đã. Vậy bạn đã có được gì ở đó? Bạn đã phát triển được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc (nama – rupa – pariccheda – nana), thấy được các hiện tượng thân tâm, thấy chúng khởi sanh do nhân duyên, và trên nền tảng đó, bạn phát triển tuệ giác sâu sắc hơn, thấy được tiến trình thân tâm này là vô thường, khổ, vô ngã, cả 3 đặc tướng. Điều đó không có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về chúng mà là nhìn một cách sâu sắc và phát hiện ra, chứ không phải suy nghĩ. Khi đã đạt đến trình độ đó, tư duy về những điều này là rất tốt, suy nghĩ trở nên rất sáng suốt và chính xác. Ở giai đoạn này, khi đi kinh hành bạn có thể cảm nhận mọi cử động đều biến mất. Bạn thấy các cử động chia thành từng đoạn một, không phải là một cử động duy nhất. Tâm chánh niệm đang hay biết cử động, mỗi lần biết một cử động rồi nó liền biến mất. Khi bạn giơ tay, bạn có thể thấy nhiều đoạn cử động nhỏ biến mất. Khi đi kinh hành, bạn dịch chuyển và quan sát, nó liền biến mất. Tôi muốn nhắc lại nhiều lần để các bạn hiểu là chuyển động biến mất chứ không phải là hình dáng biến mất. Chuyển động tự thân nó không có hình thể, dáng điệu. Chuyển động biến mất, các cảm giác biến mất, khi bạn cử động một phần thân sẽ có một vài cảm giác xảy ra: lỏng mềm, căng cứng, các cảm giác này cũng biến mất. Bạn cử động thêm một chút nữa và cảm giác lại biến mất. Chuyển động tự thân nó cũng là một loại cảm giác.
Khi ăn uống cũng thế, đưa thức ăn vào miệng; mọi cảm giác trong cử động đều biến mất. Khi nghe cái gì đó, cái nghe cũng biến mất. Chẳng hạn khi rung chuông, bạn có thể nghe thấy rất nhiều âm thanh biến mất, chứ không phải chỉ một âm thanh. Mọi thứ đều trở nên đứt đoạn, rời rạc, không liên tục, không có cái gì là liên tục cả. Thật ngạc nhiên là, trong giai đoạn này, khi uống nước chẳng hạn, bạn lấy một cốc nước và uống, nếu đó là nước sinh tố bạn sẽ cảm thấy ngon hơn, và theo dõi xem điều gì xảy ra; nó chảy dần xuống dạ dày, bạn có thể cảm nhận được nó đang chảy xuống. Bạn có thể cảm nhận được cảm giác ở dạ dày, sau vài phút bạn sẽ cảm nhận được hiệu quả của nước sinh tố trên khắp cơ thể. Bạn cảm nhận nó thấm vào từng tế bào, cảm nhận được từng sự thay đổi, bạn có thể thấy năng lượng thay đổi trong từng khoảnh khắc. Mỗi khi ăn, bạn có thể cảm nhận được hiệu quả tác động của thức ăn; khi thời tiết thay đổi bạn có thể cảm nhận được cơ thể mình cũng có sự thay đổi. Khi nói đến cơ thể, tôi không ám chỉ về hình thể mà nói đến cảm giác. Thậm chí ngay cả với suy nghĩ cũng thế, khi suy nghĩ, bạn có thể thấy tác động của nó trên toàn bộ cơ thể, mọi tế bào trong cơ thể bạn đều tham vào tiến trình suy nghĩ. Thân và tâm đều tham gia vào tiến trình suy nghĩ, chúng hoạt động cùng nhau; chúng ta không bao giờ có thể tách biệt hoàn toàn giữa thân và tâm. Mỗi ý nghĩ đều có tác động đến mọi tế bào trên cơ thể bạn và bạn có thể cảm nhận được điều đó, điều đó không phải là giả thuyết. Nó rất thú vị, sâu sắc và vi diệu. Khi đạt đến trình độ thấy biết sâu sắc như vậy, bạn sẽ thấy khó tìm được cuốn sách nào hay để mà đọc nữa. Bạn sẽ thấy nhiều cuốn sách được viết ra đơn thuần chỉ là những suy nghĩ. Nếu bạn nhạy cảm đến mức cảm nhận được mọi tác động của suy nghĩ lên cơ thể, bạn sẽ rất ngại suy nghĩ và không để suy nghĩ chen vào nữa. Bạn sẽ chánh niệm hơn và ngày càng ít suy nghĩ tiêu cực hơn. Nếu chánh niệm hơn, bạn sẽ không còn chìm đắm quá mức trong suy nghĩ nữa.
Đôi khi chúng ta suy nghĩ miên man quá nhiều. Tôi có một người bạn luôn luôn tức giận và buồn bực, không bằng lòng với bất cứ việc gì, với bất cứ người nào. Nhiều lần tôi hỏi: “Tại sao lúc nào cô cũng tự làm mình sân hận như thế? Cô có ý thức được mình đang làm thế không?”Cô ta trả lời: “Dạ, có, tôi biết mình đang làm điều đó”. “Vậy tại sao cô lại phải làm như thế?” Cô ta đáp: “Khi tức giận, tôi cảm thấy có nhiều sức sống hơn, không tức giận, tôi cảm thấy bị trầm cảm”. Luôn trách cứ người khác và thấy mình thông minh hơn họ, quả thực cô ta rất thông minh và đấy chính là rắc rối của cô ấy. Bởi vì rất thông minh nên cô nghĩ rằng mình thông minh hơn người và có thể thấy rõ mọi cái sai. Quan điểm của cô ấy là: nếu không thấy được những điều sai trái, thì bạn là kẻ ngu ngốc. Cô ta rất thông minh, nhưng cô ta luôn đau khổ. Cái nào tốt hơn, thông minh hay hạnh phúc? Nếu bạn được chọn thì đừng chọn thông minh.
Đừng luôn đi tìm cái sai. Điều quan trọng là khi thấy cái sai bạn phải biết nó.
Bất cứ điều gì trên đời cũng không đáng để chúng ta buồn bực. Trên đời này thiếu gì những kẻ xấu xa và sai trái, tự làm khổ mình về những điều đó đâu có ích lợi gì.
Phương pháp thiền này diễn giải và chú trọng về cách thức tâm tác động đến thân chúng ta. Vật chất ảnh hưởng đến thân ra sao, chánh niệm tác động đến thân thế nào, bạn có thể nhận thấy sự khác biệt khi có chánh niệm và thất chánh niệm. Bất chợt bạn nhớ chánh niệm trở lại và cảm nhận thân tâm trở nên thư giãn, thoải mái hơn, vi tế hơn và ít xáo động, bất an hơn. Bạn có thể thực sự cảm nhận được điều đó và sẽ nhận ra rằng có chánh niệm thì vẫn tốt hơn.
Không có cách sống nào tốt hơn thế! Cách sống tốt nhất là luôn luôn chánh niệm.
Mỗi khi thất niệm, thân tâm bạn sẽ bất an, xáo động và stress nhiều hơn.
Hành giả sẽ nhận thấy khi cái gì đó diệt đi, nó không đi đến một nơi nào, cũng không thu về một chỗ nào cả.
Mọi thứ đều sanh và diệt, chúng đi đâu? Không đi đâu cả, chỉ biến mất đi mà thôi.
Trước khi sanh chúng ở đâu? Chẳng ở đâu cả? Chúng chẳng từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu.
Điều này rất thâm sâu, vi diệu. Khi tự mình thấy được điều đó, bạn sẽ hiểu được sự thâm sâu, vi diệu của nó. Mỗi sát na tâm, mỗi hiện tượng, không phải là hình thể mà là cảm giác, kinh nghiệm, không đến từ một nơi nào, cũng chẳng đi về đâu. Trước khi bạn kinh nghiệm điều gì thì cái kinh nghiệm ấy ở đâu ra? Chẳng từ đâu cả! Ở đây chúng ta đang nói về việc kinh nghiệm trực tiếp thực sự. Âm thanh là một kinh nghiệm trực tiếp, cái nghe là một kinh nghiệm, xúc chạm là một kinh nghiệm, chuyển động là một kinh nghiệm, tất cả kinh nghiệm sanh khởi trong hiện tại và cũng diệt mất trong hiện tại.
Anidhanagata bhagga punjo n’atthi anagate,
Nibbatta ye pi titthanti aragge sasapupama.
~Vsm 625
Chúng không đến từ một nơi nào và cũng chẳng đi về đâu.
Anidhanagata bhagga: nghĩa là khi diệt, chúng không đi đến một nơi nào, không tụ về nơi chốn nào.
punjo n’atthi anagate: Trước khi đến, chúng không có ở một kho chứa nào.
Nibbatta ye pi titthanti: Khi diễn ra rồi, nó không ở lại.
aragge sasapupama: Như để hạt cải đầu kim, sẽ trụ được bao lâu Nó sẽ rơi rụng ngay tức thì.
Có rất nhiều bài kệ như vậy, rất hay và sâu sắc nhưng tất cả đều diễn tả cùng một ý nghĩa. Ngay cả nghiệp (kamma) cũng sanh và diệt. Có một loại hình năng lượng rất khó diễn tả bằng ngôn từ. Ngay chính năng lượng này cũng không phải là một vật thể, nó luôn luôn trong dòng biến động. Phải mất một số thời gian mới đủ để diễn tả về nó. Có người hỏi tôi cũng chính câu hỏi đó mấy ngày trước đây. Chẳng hạn, một đĩa máy tính, đủ thứ âm thanh và hình ảnh. Khi chuyển nội dung văn bản, âm thanh và hình ảnh từ đĩa vào máy tính, thực tế trong cái đĩa đó không hề có âm thanh. Ngay cả băng cát-xét cũng không có âm thanh trong đó. Hiện tượng này được giải thích là trong đĩa chứa những ký hiệu mã hóa dưới dạng điện tử. Chúng ta chuyển âm thanh thành dòng điện, rồi chuyển từ dòng điện thành các ký hiệu điện từ. Nhập mã điện từ này vào máy tính và nhìn vào trong đĩa, bạn sẽ thấy chỉ có hai ký hiệu, hai thông tin, có-không, ON-OFF chỉ có hai ký hiệu và bằng cách kết hợp hai ký hiệu này bạn có thể tạo ra được bất cứ điều gì trong máy tính. Trong đĩa máy tính chỉ có duy nhất những sự kết hợp khác nhau của OFF-ON, ON-OFF và đĩa máy tính đó được làm bằng chất liệu gì? Có thể chỉ làm bằng nhựa, bên trên phủ một lớp sắt nhiễm từ rất mịn. Tôi không biết chính xác, nhưng nó phải là một hợp chất sắt, nếu nhìn sâu vào hợp chất sắt này, chúng chỉ là các nguyên tử, và nếu nhìn sâu hơn vào nguyên tử bạn sẽ thấy các hạt điện tử đang luôn thay đổi, biến dịch. Song mặc dù những nguyên tử trong đĩa máy tính luôn luôn thay đổi, nó vẫn duy trì được một sự liên tục nào đó, và bạn có thể truy xuất dữ liệu từ đó.
Nói về nghiệp là một điều rất khó. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói rằng khó nhất là nói về nghiệp. Trong vòng luân hồi (samsara), nếu nói không có chúng sanh nào thì làm sao con người có thể trôi lăn trong luân hồi? Bạn nói không có ai cả, nhưng rồi lại nói con người trôi lăn trong vòng luân hồi? Tôi muốn thảo luận riêng về vấn đề này vào một dịp khác; đây là một chủ đề rất thú vị. Trong giai đoạn này hành giả thấy được tiến trình thân tâm, cả hai đều sanh và diệt, chứ không phải chỉ có một tiến trình sanh diệt. Hay biết các cảm giác và tâm chánh niệm, cả hai đều sanh diệt, điều này được gọi là “phương pháp quán sát song hành”. Lúc đầu hành giả thấy rằng: “Tôi đang hành thiền”. Đây là một cảm giác rất thực. “Tôi đang ngồi đây hành thiền và đang cố gắng rất tích cực”, nhưng khi tuệ giác đã phát triển thâm sâu hơn, hành giả bắt đầu thấy ngay cả cái tâm tôi gọi là thiền này (thiền là gì? Đó là một tâm; tâm chánh niệm), tâm chánh niệm này cũng chỉ thoáng qua; lúc có lúc không. Thiền không phải là một cái gì đó lớn lao. Nó chỉ là một cái tâm thay đổi từng sát na. Thấy được ngay cả tâm chánh niệm này cũng vô thường, khổ, vô ngã, không có cái “Tôi” nào đang hành thiền cả, chỉ khi đó hành giả mới phát triển được tuệ giác thực sự về vô ngã. Trước đó, hành giả có thể thấy đối tượng sanh diệt. Thấy suy nghĩ sanh diệt, nhưng chưa thấy được tâm chánh niệm, tâm thiền sanh diệt.
Ai đang hành thiền? Đó chỉ là tâm, một chuỗi các tâm. Khi thấy chỉ có một chuỗi tâm chánh niệm, một chuỗi tâm thiền, không phải một chúng sanh, không phải “tôi”; Chính cái thấy đó mới làm hoàn chỉnh hiểu biết về vô ngã, bằng không hiểu biết sẽ không đầy đủ. Đạt được đến chỗ này là rất quan trọng.
Chỉ khi hành giả đạt đến đây mới có thể lột bỏ được tà kiến, thực sự buông bỏ tà kiến. Không phải tôi đang hành thiền, cái gọi là hành thiền chỉ là một chuỗi tâm chánh niệm. Trừ phi đạt tới chỗ này, bằng không hành giả sẽ không thể tiến triển lên giai đoạn tiếp theo được.
Tôi dự định sẽ giảng xong hai tầng tuệ trong ngày hôm nay, nhưng cuối cùng ngay cả một tuệ cũng không hoàn thành được. Tôi muốn cho các bạn một hiểu biết cơ bản thật rõ ràng, rành mạch bởi vì, nếu bạn không hiểu được những điều cơ bản thì giảng những cái cao hơn cũng chẳng lợi ích gì. Một khi đã hiểu đầy đủ phần này thì những phần còn lại sẽ tương đối dễ dàng. Đó là lý do tại sao tôi nói với các bạn là tôi sẽ giảng thật kỹ về 4 tầng tuệ đầu tiên, những tuệ còn lại sẽ nói rất ngắn gọn. Nó sẽ không khó, chỉ giảng thêm về cùng một chủ đề mà thôi. Bốn tuệ giác đầu tiên là quan trọng nhất.
Một điều cần phải hết sức cảnh giác là hành giả thường rất hay tự mãn về sự tiến bộ trong thiền và các tầng tuệ mà mình đã đạt được. “Tôi biết, tôi hiểu, những người khác không thể biết được bằng tôi”, đó là một loại ngã mạn.
Hãy quan sát cái tâm đó: “Tôi biết tôi có thể hành thiền được mà, tôi là một thiền sinh giỏi, tôi có thể trụ tâm trên đề mục liên tục suốt một thời gian dài”, đó cũng là một loại tự mãn, ngã mạn và tự hài lòng với mình. Kiêu mạn và tự mãn thường đi liền với nhau. Khi những suy nghĩ đó sanh khởi, hãy nhân cơ hội đó, quan sát nó cho kỹ. Khi thấy được nó, bạn sẽ vượt qua được và thậm chí sẽ được tự do hơn. Ngay cái “Tôi”, “Tôi biết”, “Tôi có thể”, tự nó đã giới hạn, đóng khung bạn lại rồi. Nếu thực sự muốn được tự do, hãy quan sát ngay những suy nghĩ đó. Chắc chắn chúng sẽ đến.
Kiêu hãnh, tự hào về bất cứ thành công nào của mình và nghĩ rằng mình tốt hơn người khác, đó chính là cái “Tôi”, cái “ngã”. Trong một số trường hợp, sự kiêu mạn này đeo bám rất chặt. Đó là lý do ngã mạn (mana) chỉ có thể hoàn toàn bị đoạn trừ ở đạo quả thứ tư; chỉ một vị Alahán mới không còn ngã mạn. Ngã mạn là sự so sánh. Bạn so sánh mình với người: “Tôi thiền giỏi hơn, tôi có thể, tôi biết”, hãy nhìn những suy nghĩ đó sanh khởi trong tâm; nếu thấy được nó đến và đi như vậy, dần dần quá trình tự đồng hóa mình với suy nghĩ ấy sẽ không còn nữa. Chúng ta luôn luôn tự đồng hóa mình với mọi thứ. Sự tự đồng hóa này được gọi là ngã mạn (mana) hay tà kiến (ditthi). Khi thực hành một cách miên mật, và vượt qua được những điều này, mọi việc trở nên suôn sẻ, dễ dàng hơn, bằng không nó sẽ trở thành một rào cản, một loại chướng ngại.
Một điều cần lưu ý nữa là sự dính mắc. Chúng ta thường dính mắc vào những thời tọa thiền tốt đẹp, vào những kinh nghiệm tốt. Chúng ta dính mắc vào sự sáng suốt, thấy biết rõ ràng.
Thật là thích khi mình sáng suốt, thấy biết rõ ràng. Khi bạn đã có được nó mà lại bị mất, bạn sẽ cảm thấy rất bực bội vì sự thấy biết rõ ràng đem lại thỏa mãn rất lớn, thật là bực mình khi không còn sáng suốt nữa. Chúng ta bị dính mắc vào sự sáng suốt này, đó là một loại tham (lobha). Bất cứ một loại dính mắc nào, hãy quan sát suy nghĩ đó, quan sát sự dính mắc vào sự sáng suốt, vào kinh nghiệm tốt trong thiền.
Tôi sẽ tạm dừng ở đây, tuần sau sẽ chỉ nói về một tuệ giác thôi. Tốt hơn cả là kiên nhẫn và dần dần đi sâu vào chi tiết đối với bốn tầng tuệ đầu tiên. Nếu bạn có câu hỏi nào, có điều gì chưa rõ, xin cứ việc hỏi.
Hỏi & đáp: Thực tại chân đế (paramatha) không đánh mất hay biến đổi tính chất, đặc tính vốn có của nó. Ví dụ: nóng chuyển thành lạnh. Điều đó là không thể; nóng sanh lên và diệt đi cũng chỉ là nóng. Cứng không thể chuyển thành mềm được, mặc dù chúng là một chuỗi liên tục, nhưng nó không thể sanh ra là một thứ này rồi biến thành một thức khác được. Khi một cái khác sanh khởi thì nó là cái hoàn toàn mới. Tất cả các pháp do duyên sinh (các pháp hữu vi) đều luôn luôn mới. Chúng sanh lên và diệt đi mà không hề đánh mất tính chất vốn có của mình. Mọi thứ sanh và diệt trong một thời gian rất ngắn đến nỗi chúng không có đủ thời gian để chuyển đổi thành thứ khác.
[1] NASA: Cơ quan nghiên cứu không gian của Mỹ
Theo: Bản đồ hành trình tâm linh
Tác giả: Sayadaw U Jotika
Mời bạn đọc đón xem chương 7, phần 1 : Tuệ thứ tư: Kinh nghiệm sự sanh diệt của các hiện tượng . Phân biệt đạo và phi đạo