Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Từ chùa Báo Ân đến chùa Hoằng Ân

Từ chùa Báo Ân đến chùa Hoằng Ân

292

Vừa thờ Phật, vừa tu theo Đạo giáo

Theo một số thư tịch cũ, trong đó có Tây Hồ chí, chùa được lập thời nhà Lý và có tên là Báo Ân tự (chùa Báo Ân). Tương truyền, thiền sư Ngô Ân (1019-1088) đã khởi lập một am thờ Phật, đời sau mới dựng thành chùa, và từ thời Lý chùa đã nổi tiếng là một danh lam của kinh thành Thăng Long.

Đạo sỹ Trần Tuệ Long đắc đạo tại Báo Ân tự, môn đồ đã thu xá lợi nhập tháp (tiếc là nay không còn tháp đó). Mùa xuân năm Hưng Long thứ 16 đời Trần Anh Tông, thiền sư thi sỹ Lý Huyền Quang (sau là tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm) từ Yên Tử về Thăng Long dự lễ triều hạ xong có đến chùa giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, rồi mới về hương Vạn Tải…

Đến niên hiệu Thuận Thiên nhà Lê (1428-1433) chùa được trùng tu. Thời Hồng Đức (1470-1498) thường có cầu đảo tại Báo Ân tự. Mùa hạ năm Giáp Thân 1644 đời Lê Chân Tông, danh tăng Chuyết Công giảng kinh Niết bàn tại chùa Báo Ân để tỏ ý sắp nhập diệt, (đến tháng Bảy ông đi thuyền về chùa Ninh Phúc mà hóa)…

Trải qua một thời gian dài trong lịch sử, Báo Ân tự vừa là nơi thờ Phật, vừa là nơi tu theo Đạo giáo, cũng là nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh của cộng đồng dân cư.

Vào năm Vĩnh Tộ thứ mười đời Lê Thần Tông (1628), chùa đã được xây dựng lớn. Chính con gái Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế Nguyễn Hoàng là công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú, vợ chúa Trịnh Tráng (1623-1657), đã đứng ra xây lại chùa, quy mô rộng lớn hơn trước và vẫn giữ nguyên tên là Báo Ân tự.

Sau, bà Ngọc Tú xuất gia, tu trì tại chùa. Đến thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng (1820-1840) đến thăm chùa, lấy lý do bà cô tổ xưa là Nguyễn Thị Ngọc Tú, hiệu Từ Thuận đã xuất gia ở đó, vua cho đổi tên chùa thành Hoằng Ân tự và ban mấy trăm quan làm tiền dầu hương, Sách Tây Hồ chí chép như vậy.

Còn theo văn bia dựng ngày 12.8.1844 hiện lưu giữ ở chùa thì, nguyên tên chùa từ thời Lê là Long Ân. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhân chuyến tuần du ra Bắc, vua đã đến thăm chùa, khi ấy chùa đã mang tên Sùng Ân tự. Năm Tân Tỵ 1841, vua Thiệu Trị đến thăm chùa Sùng Ân mới cho đổi thành chùa Hoằng Ân, và cho 200 quan tiền tu sửa chùa vì nhiều chỗ giột nát.

Theo văn bia ấy, thì chùa còn có hai tên nữa là Long Ân tự và Sùng Ân tự. Do chùa ở làng Quảng Bá (xưa gọi là Quảng Bố), nên còn được gọi là chùa Quảng Bá.

Cơ sở cách mạng an toàn

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa Hoằng Ân là một trong những cơ sở cách mạnh an toàn của Đảng ta. Nhiều tăng ni trong chùa đã có công nuôi và bảo vệ cán bộ. Nền nhà Tổ của chùa có một căn hầm bí mật cho cán bộ cách mạng trú ẩn.

Gác cao kề nhà Tổ là nơi các nhà sư quan sát rất thuận lợi để canh chừng cho những lần hội họp của cán bộ. Chùa Quảng Bá cũng là nơi an táng nhiều hòa thượng có công đức trong sự nghiệp hoằng pháp cũng như sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong đó có hòa thượng Phạm Ngọc Đạt, hiệu Bình Lượng, viên tịch tại Hà Nội, là ân nhân của Bác Hồ thời kỳ Người hoạt động bí mật tại Thái Lan…

Chùa Quảng Bá hiện còn lưu giữ được nhiều di vật văn hóa, lịch sử quý hiếm. 30 pho tượng sơn son thếp vàng lộng lẫy, được tạo tác công phu, tinh xảo với nghệ thuật tiêu biểu của thế kỷ XVII, XVIII, trong đó có pho tượng Quan Âm Nam Hải, dù kích thước không lớn, nhưng lại mang một vẻ đẹp đặc biệt.

Gương mặt Quan Âm Nam Hải thuần hậu, áo cà sa nhiều nếp, Phật trong tư thế thiền tọa, chân chống chân buông dẫm trên đài sen nhỏ. Trong hai quả chuông đồng ở chùa Quảng Bá hiện nay, quả chuông nhỏ có niên đại thời Nguyễn. Còn quả chuông lớn được tạo tác từ năm Cảnh Hưng thứ ba đời Lê Hiển Tông (1743).

Chuông cao 1,5m, đường kính tới 80cm, có khắc nổi trên vai chuông bốn chữ Hán Long Ân tự chung (chuông chùa Long Ân). Thân chuông chia làm bốn múi, tượng trưng cho bốn mùa, có khắc bài văn chuông ghi việc hưng công đúc chuông.

Hệ thống bia đá ở chùa Quảng Bá có tới 30 bia hầu hết làm bằng thứ đá xanh mịn rất quý. Đặc biệt, một bia tạo dựng vào năm Chính Hòa thứ 21 đời Lê Hy Tông (1700) có khắc hình tượng một ni sư, một số nhà nghiên cứu cho đó là hình tượng công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú…