Chiêm bái thánh địa
Tôi mãi ngẩn ngơ trước tấm bia mang nét bút tài hoa của Càn Long – vị vua tinh thông võ nghệ. Ông kể, một lần đến thăm Thiếu Lâm Tự, vô cùng xúc động khi nghe câu chuyện Đạt Ma “cửu niên diện bích” và Nhị Tổ Huệ Khả cầu đạo. Suốt đêm ông thao thức, nằm nghe mưa rơi ngoài hiên, gió thì thầm trên ngọn cây tùng, và suy nghĩ vẩn vơ về ý nghĩa kiếp người.
Sau Thiên Vương Điện là Chính Sảnh, vừa được trùng tu. Phía đông Chính Sảnh là đền Jinnaluo, nơi đặt tượng thần Đại La, là vị thần của các võ sư Thiếu Lâm.
Sau Chính Sảnh là Tàng Kinh Các, nơi lưu giữ kinh sách, bí kíp võ công và các văn kiện vô giá khác. Tòa nhà không rộng lắm nhưng không hiểu sao dưới ngòi bút của Kim Dung (trong Thiên Long Bát Bộ), suốt 30 năm, Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác có thể ẩn thân để lén lút ăn cắp bí kíp võ công thượng thừa mà không ai hay. Tiếp sau là phòng Phương Trượng, nơi ở của vị Trụ trì. Sau phòng Phương Trượng là Lập Tuyết Đình. Chính nơi đây, trước Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả chặt đứt cánh tay trái tỏ lòng chí thành cầu đạo. Sau cùng là điện La Hán, tòa điện lớn nhất, nơi truyền dạy công phu Thiếu Lâm. Chỉ những môn sinh tài giỏi nhất mới được tuyển vào luyện tập ở đây.
Rồi từ đây lại chọn ra người xuất sắc nhất trong số môn sinh tài giỏi ấy để được truyền thụ đặc biệt trong Đạt Ma Đình, nơi họ được thụ giáo những tuyệt kỹ công phu Thiếu Lâm. Kín trên bốn bức tường điện La Hán là bức bích họa vĩ đại mô tả 500 vị La Hán biểu lộ sự tôn kính hướng về đức Phật. Trên nền gạch của điện La Hán còn nguyên 48 vết lõm sâu, là dấu chân của các nhà sư bền bỉ luyện công qua hàng chục thế kỷ.
Thiếu Lâm Tự vĩnh hằng theo thời gian…-Ảnh: N.V |
Phía Đông điện La Hán là điện Quan Âm với bức bích họa nổi tiếng vẽ “13 vị sư Thiếu Lâm giải cứu vua Đường”. Tường phía Bắc và phía Nam là tranh đặc tả các loại công phu Thiếu Lâm do các nhà sư thực hiện bằng nhiều loại vũ khí khác nhau…
Một trong năm đỉnh núi phía sau chùa Thiếu Lâm là động Bồ Đề Đạt Ma, nơi sư Tổ quay mặt vào vách đá thiền định suốt 9 năm ròng rã, đến mức khuôn mặt Ngài in hằn lên đá. Ngày nay, tảng đá ấy được đem về lộng kính trưng bày trong điện Quan Âm. Thoạt nghe, tôi nghĩ đó chỉ là huyền thoại, bây giờ đến đây rồi mới thấy đó là sự thật.
Thiếu Lâm Tự và sứ mệnh thời đại
Hàng ngày hàng vạn du khách từ khắp nơi đổ về đây chiêm ngắm thánh tích có một không hai này. Hẳn nhà nước Trung Quốc ý thức rõ vai trò lịch sử của Thiếu Lâm Tự nên đã cho đại trùng tu ngôi chùa và tiến hành xây dựng nhiều công trình phục vụ khách tham quan. Ngay giữa cửa ngõ vào chùa, một tảng đá lớn với thủ bút của Chủ tịch Giang Trạch Dân: “Thiếu Lâm văn hóa – Nhân loại đạo sản” (Thiếu Lâm Tự là di sản đạo đức của nhân loại).
Ảnh: N.V |
Ngày nay dưới chân núi Thiếu Thất có đến 60 Học viện Võ thuật Thiếu Lâm với hơn 40.000 môn sinh, là những thanh thiếu niên trên khắp đất nước Trung Hoa về đây ngày đêm khổ luyện. Rõ ràng trên nền tảng của truyền thống văn hóa dân tộc, nhà nước Trung Quốc chủ trương nhất thống các võ phái của họ thành Wushu – môn võ thuật hiện đại của Trung Quốc, lấy Thiếu Lâm Tự làm gốc. Để từ cái nôi Thiếu Lâm Tự, sản sinh ra những chuyên gia võ thuật, những huấn luyện viên, trọng tài, vận động viên xuất sắc. Qua Wushu, Trung Quốc giới thiệu văn hóa độc đáo của họ đến với bạn bè khắp nơi trên thế giới.
Với tôi, chuyến viếng thăm Thiếu Lâm Tự lần này là cuộc trở về. Từ những gì được soi rọi ở đây, tôi càng vững tin hơn, rằng võ thuật đích thực phải luôn là Võ đạo; phải là hình thái văn hóa đặc thù góp phần làm cho cuộc sống đẹp hơn, phong phú hơn, đáng sống hơn; là công cụ giúp con người đạt đến cõi tự tại, tự chủ – thân thanh sạch, cường kiện, trí sáng ngời nhật nguyệt, tâm tĩnh lặng vô ưu. Và với đất nước mình, võ thuật còn phải là công cụ giao lưu quốc tế, để khoe mình với bạn bè bốn biển năm châu.
Huyền thoại bất tử Sự tồn tại của Thiếu Lâm Tự gắn với nhân vật huyền thoại: Bồ Đề Đạt Ma. Ngài là vị Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ. Sau khi được truyền Y Bát và Tâm Ấn, Ngài đi thuyền về hướng đông, cập bến Quảng Châu vào năm thứ 7 đời Lương Võ Đế (520) mang theo thông điệp: sự thinh lặng. Bài giảng Pháp đầu tiên cho Lương Võ Đế mới mẻ, đột phá tới mức cả triều thần ngơ ngác. Thấy Lương Võ Đế tuy hết lòng tin Phật nhưng thiếu huệ căn của bậc đại sĩ, Ngài tạ từ rồi lên hướng bắc. Lúc đầu dừng chân ở Lạc Dương, sau cùng an trú tại Thiếu Lâm Tự… Một trong những trở ngại của quá trình hành Thiền là thân xác đau nhức, mệt mỏi dẫn đến hôn trầm. Để tăng cường năng lực tu chứng và tránh khỏi hôn trầm, Ngài cung cấp cho môn đồ phép Dịch Cân Kinh và Tẩy Tủy Kinh để tập luyện hàng ngày. Đó là phương pháp khí công, nội ngoại công làm cơ sở cho nền võ học sau này. Thiền tông giải phóng con người khỏi mọi chấp ngã; dung nạp mọi sắc thái, mọi hành vi, mọi tính cách (chỉ trừ sát sinh, trộm cắp và sắc dục). Thiếu Lâm Tự thuộc Trung Nguyên là trung tâm chính trị, lịch sử; khí hậu ôn hòa, cảnh sắc kỳ tú, thích hợp cho việc tu tập, mai danh ẩn tích. Do thế, Thiếu Lâm Tự trở thành nơi lý tưởng quy tụ đủ mọi hạng người. Cùng với ảnh hưởng to lớn của Thiếu Lâm Tự trong đời sống xã hội Trung Hoa, võ thuật không dừng lại ở vai trò rèn luyện sức khỏe và tự vệ mà còn là công cụ chống ngoại xâm, trừ gian khử bạo, bảo vệ lẽ phải. Đội quân Thiếu Lâm Tự ra đời, đông đến hàng ngàn người. Họ thường được đi theo quân đội triều đình trong các cuộc chinh phạt. Nhiều nhà sư trở thành chiến binh lỗi lạc như Sơn Hồ, Trí Cao… đời Đường; Phúc Tử, Phúc Thời… đời Tống; Từ An, Linh An… đời Nguyên… Đời Thanh, Thiếu Lâm Tự là thành trì của công cuộc phản Thanh phục Minh, mặc cho Thanh triều thẳng tay đàn áp. Trên nền tảng Phật giáo Thiền tông, truyền thống văn hóa Trung Hoa, hệ thống võ thuật Thiếu Lâm Tự hình thành và phát triển bao gồm nội ngoại công phu, quyền pháp, binh khí, cả binh pháp. Thiếu Lâm Tự là đại chánh phái, là Võ lâm Bắc đẩu, là kho tàng võ thuật không bao giờ cạn, là cái nôi của võ thuật Trung Hoa và võ thuật thế giới. Vì thế, Bồ Đề Đạt Ma được coi là ông Tổ của các nền võ thuật. |