Cáo tật thị chúng
告 疾 示眾
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch thơ:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.
Ngô Tất Tố dịch thơ:
Xuân ruổi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai
Tản Đà dịch thơ:
Xuân đi muôn vạn hoa tàn
Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
Chờ cho xuân hết hoa tàn
Đêm qua sân trước nở vàng cành mai
1.- Tác giả: Mãn Giác (滿覺), (1052-1096), là Thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Ngài nối pháp Thiền sư Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bổn Tịnh. Với bài thơ – bài kệ “Cáo tật thị chúng”, Thiền sư được nhiều người tôn vinh là một nhà thơ đại biểu của dòng văn thơ Lý-Trần.
Thiền sư Mãn Giác họ Nguyễn thế danh là Trường (阮長), (còn gọi là Lý Trường 李長), thân phụ là Lý Hoài Tố làm chức Trung thư Viên ngoại lang. Thiếu thời, vua Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Trường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Trường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín Trưởng lão.
Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học đạo với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi. Thiền sư là bậc lãnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Thiền sư làm trụ trì.
Năm 1096, cuối tháng 11, Thiền sư gọi đồ chúng đọc bài kệ:
Cáo tật thị chúng (告 疾示 眾):
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đọc xong Thiền sư ngồi kết già tỉnh tọa an nhiên thị tịch, Ngài trụ thế 45 năm. Sau lễ trà tỳ, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, vua thuỵ hiệu là Mãn Giác Thiền sư.
2.- Bài kệ – bài thơ:
Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời kỳ văn học Lý-Trần, một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương.
Bài thơ mượn cảnh thị tình, lấy tình “trực chỉ chân tâm” nhằm khai phóng nhân sinh.
Dùng tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ bắt đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản, sinh động: Khai, lạc của mai hoa (đào hoa, xuân hoa…) là cái nhãn tiền tự nhiên nhi nhiên:
Xuân khứ bách hoa lạc – Xuân đáo bách hoa khai
Không có mới cũng chẳng có cũ, không có đi cũng chẳng có về; đáo hay khứ thực ra chỉ là một thực tại bị chia cắt thành những khái niệm mà chỉ cần khởi tâm trí tuệ thì bỗng dưng được con mắt sáng mà nhìn, nghe, và cảm nhận cái thi vị của cuộc đời sau những tột cùng vô biên của sự phân chia, tách bạch.
Trước hết, chính tự nhiên, cho nên có con mắt thứ nhất mở ra phía sau trước nhìn vào chốn sinh linh mà dạy rằng: đừng bảo, đừng nói, đừng ngộ nhận, chớ lời, chớ chắc, chớ đoán… và còn con mắt thứ hai dành cho kẻ Xuân Thu biết vui thú du xuân bốn mùa tự nhiên sẽ có được:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cùng với muôn vàn con mắt không phô diễn.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Xuân khứ (hoa lạc, quá) – nhất chi mai – Xuân đáo (hoa khai, lai)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
Lâu nay người ta sợ hãi là sợ cái có có – không không đối đãi, thì đây là vật chứng, là hiển nhiên của sinh diệt mà cũng là bất diệt. Cái giả hợp tất chịu đổi thay: còn trẻ răng trắng má hồng, lúc tuổi già răng long tóc bạc. Nhưng trong chỗ diệt diệt sinh sinh ấy có một thứ vượt ra ngoài sinh tử, và một lúc nào nhận diện được nhành mai trước sân thì tức là đang sống, đang tồn tại với Phật tánh vĩnh cửu chân như của chính mình. Tìm kiếm Phật ở bên ngoài thì cũng giống như cá chép tranh nhau vượt Vũ Môn, muôn đời làm sao hóa rồng được?!
Chân tánh là vô tánh, tử – sanh chẳng nói.
Vì “không hoa, mặc bướm để lòng chi”?
Thế mới biết:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.
Điều mà chúng ta cảm nhận được qua bài kệ – bài thơ là: bài kệ rất đơn giản nhưng lại nói được rằng “vũ trụ vốn có những quy luật, con người và sự vật luôn luôn phải tuân theo, thế nhưng vẫn có những điều huyền diệu, thần kỳ xảy ra, vượt ra ngoài cái khuôn khổ bình thường có quy luật của vũ trụ”.
Quy luật đối với thiên nhiên là:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Quy luật đối với con người là:
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Nhưng đừng có nghĩ thế, vẫn có những sự huyền diệu, nhiệm màu, thần kỳ:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
Hy vọng của mỗi người chúng ta, trong cuộc đời mình, sẽ có những lần may mắn được thấy, được nghe, được cảm nhận… những điều huyền diệu, nhiệm màu, thần kỳ, nhưng rất đơn giản, bé nhỏ… như “một cành mai!”