CHƯƠNG II: CÁCH THỨC NHÌN NHẬN
BỐ CỤC MỘT BỘ KINH PHẬT GIÁO
[Như Thị ngã văn Nhất Thời Phật tại Ta Kiệt La Long Cung, dữ bát thiên Đại Tỳ Kheo chúng, tam vạn nhị thiên Bồ Tát Ma Ha Tát câu]
Như thị ngã văn mở đầu của bộ kinh là một trong lục chủng chứng tín.
Ngã: A Nan tôn giả
Văn: là đích thân, chính tai được nghe.
Nghĩa là Bộ kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” cho chính A Nan (tôi) được nghe từ nơi Phật tuyên thuyết.
Như thị: tín thành tựu
Ngà văn: văn thành tựu
Nhất thời: thời thành tựu
Phật: chủ thành tựu
Long Cung Ta Kiệt La: xứ thành tựu
Bát thiên… chúng thành tựu.
Một hàm ý khác của như thị là biểu tín. Tín tức là tín ngưỡng, là đệ tử Phật tiếp nhận học tập một bộ kinh điển đều phải lấy tín làm cơ sở. Có tin ngưỡng mới nhận được lợi ích của Phật Pháp, “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn”. Quá trình tu tập trải qua 4 tầng thứ là “Tín, Giải, Hành, Chứng”. Trên cơ sở của tín học tập thì có thể gia tăng lý giải. Từ nơi lý giải được thâm sâu mà tín ngưỡng càng thăng hoa. “Hữu tín vô trí trưởng ngu si” nhưng “Hữu trí vô tín tăng ngã mạn” hai câu này nói rõ quan hệ giữa tín và giải. Nếu chỉ dừng ở tín ngưỡng mà không chú trọng đến văn tư, thiếu mất chánh kiến sẽ dễ rớt vào mê tín. “Hữu trí vô tín” trí này không phải là trí tuệ Bát nhã, mà là thế trí biện thông thường đem kinh điển xem thành nghiên cứu học thuật nên sẽ sanh ra vấn đề: tuy rằng trước thuật ngày càng nhiều, danh tiếng ngày càng lớn nhưng không biết chú trọng điều chỉnh tâm hạnh nên chìm đắm danh vọng, tăng trưởng ngã mạn. Có được cơ sở của tín, giải còn phải tiếp tục ứng dụng tu hành để thể nghiệm sâu hơn về Phật Pháp để chỉ đạo cho việc tu tập, việc tu hành không ngừng thâm sâu thì mới có được sự thể chứng, có được thành tựu. Bộ Kinh là sự ghi chép về một kỳ Pháp hội.
CHƯƠNG III: AI LÀ NGƯỜI SÁNG THẾ?
[Nhĩ thời Thế Tôn cáo Long Vương ngôn: Nhất thiết chúng sanh tâm tưởng dị cố, tạo nghiệp diệc dị, do thị cố hữu chư thú luân chuyển. Long Vương nhữ kiến thử hội cập đại hải trung, hình sắc chủng loại các biệt phủ da? Như thị nhất thiết, mị bất do tâm, tạo thiện bất thiện, thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp sở trí].
Đoạn kinh này giải đáp cho chúng ta vấn đề ai là đấng sáng thế?
Từ xưa đến nay tất cả tôn giáo, triết học đều rất quan tâm đến vấn đề khởi nguyên của thế giới đều đi tìm thế giới bắt đầu từ đâu? Ai là người tạo ra? Truy tìm ai là người quyết định mọi họa phước, kiết hung ở thế gian vì không tìm được đáp án cứu cánh cuối cùng đều qui kết cho thần. Cho rằng thần quyết định hết tất cả mọi việc. Khởi đầu hình hành đa thần luận cho rằng thế gian do nhiều vị thần quản lý sắp đặt, mỗi người giữ một trọng trách như thần gió, thần mưa, thần mặt trời,… Sau đó phát triển thành nhị thần luận đem thần linh chia thành hai nhóm là thiện thần và ác thần. Thiện thần quyết định mọi việc thiện ở thế gian, ác thần quyết định ác nghiệp của thế gian. Tiếp nữa nhị thần luận phát triển thành nhất thần luận đây cũng là tôn giáo có nhiều người theo nhất hiện nay. Nhất thần luận cho rằng trong vũ trụ tồn tại một vị thần tối cao, chi phối tất cả, do vị thần này sáng tạo thế giới và quyết định hết thảy. Con người và vạn vật là do thượng đế trong 7 ngày sáng tạo ra. Đạo Hồi cho rằng thánh Ala sáng tạo ra mọi vật trong trời đất và nhân gian. Bà La Môn giáo (Ấn Độ giáo) lấy Đại Phạm Thiên (Brahma) làm thần sáng tạo ra trời đất đồng thời dùng các bộ phận trong cơ thể để tạo ra các đẳng cấp chủng tộc.
Ngược lại với quan điểm của hữu thần luận là vô thần luận, cho rằng thế giới không phải do thần tạo ra, mọi thứ đều là ngẫu nhiên.
Ngoài ra còn có hai quan điểm triết học khác là duy vật và duy tâm. Thuyết duy vật cho rằng thế giới tồn tại những nguyên tố vật chất cơ bản không thay đổi làm cơ sở phát sanh ra vạn vật, chủ trương từ vật chất sanh ra ý thức. Còn thuyết duy tâm cho rằng thế giới có nguyên tố tinh thần cơ bản bất biến và vạn vật khởi nguồn từ nguyên tố tinh thần ấy, cho rằng do tinh thần sanh ra vật chất.
Phật giáo không phải hữu thần luận cũng không phải vô thần luận. Phật giáo cũng không tán đồng với chủ trương của thuyết duy vật và thuyết duy tâm.
Phật Pháp nhìn thế giới như thế nào? Đoạn kinh văn trên chính là đáp án của Phật Pháp về ai là đấng sáng thế.
“Nhĩ thời thế tôn cáo Long Vương ngôn”. Lúc này, Đức Thế Tôn nói với Long Vương. Từ đây bắt đầu đi vào nội dung của kinh văn. Đoạn trước đã nói tham dự pháp hội này có bát thiên Đại Tỳ Kheo chúng, tam vạn nhị thiên đại Bồ tát chúng. Vì sao đức Phật chỉ nói với Long Vương? Bởi vì mỗi một bộ Kinh đều có một đương cơ giả. Có những bộ kinh đương cơ giả là ngài Xá Lợi Phất, cũng có kinh là Bồ tát Quán Thế Âm. Bộ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo lấy Long Vương làm đương cơ giả. Đức Phật tuy nói với Long Vương nhưng đồng thời cũng là nói với tất cả đệ tử Thanh Văn, Bồ Tát trong pháp hội, cũng có ý nghĩa là nói với tất cả người tu học bộ kinh này ở đời sau trong đó có chúng ta.
[Nhất thiết chúng sanh]. Chúng sanh có hai dạng là do ngũ uẩn hòa hợp và do trải qua sanh tử tạo nên. Phật Pháp chia thế giới thành hai loại là hữu tình thế giới và vô tình thế giới. Hữu tình thế giới gồm con người và tất cả động vật, vô tình thế giới là sơn hà đại địa. Trong thập pháp giới trừ Phật, chín giới hữu tình đều là chúng sanh.
[Tâm tưởng dị cố, tạo nghiệp diệc dị]: “Tâm tưởng” tức là tư tưởng của ý thức tâm vương. Chúng sanh nhân vì quan niệm tư tưởng và phương thức tư duy không giống nhau mà tạo nghiệp thiên sai vạn biệt rồi không ngừng luân chuyển trong sáu đường lục đạo. Nhìn từ quan điểm của Phật pháp, sự khác biệt của vạn sự vạn vật ở thế gian không do thần quyết định, cũng không do vật chất hay tinh thần phát sinh, càng không phải ngẫu nhiên xuất hiện, tất cả đều do nơi tâm niệm sai biệt của chúng sanh. Bài kệ Kinh Hoa nghiêm đã chỉ rõ nguyên lý này “Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”. Bất luận là Phật Bồ Tát, La Hán thánh giả, chư thiên, loài người, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh tìm sâu căn nguyên đều quyết định bởi tâm niệm và nghiệp lực khác biệt của chúng hữu hình. Đây cũng như trong kinh A Hàm đã nói “Tâm chủng chủng cố, sắc chủng chủng”. Vì tâm có nhiều loại sai biệt nên hiển hiện ra thế giới mới có thay đổi sai khác không đồng.
Nhìn từ xã hội loài người, sự khác biệt to lớn giữa văn hóa đông tây căn nguyên cũng từ nơi sự khác biệt về phương thức tư duy, mà phương thức tư duy cũng được quyết định bởi tư tưởng và quan niệm của nội tâm, người có tín ngưỡng, người không tín ngưỡng dù có chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh môi trường nhưng nguồn gốc vẫn từ nơi tâm của chúng ta. Bởi vì “tâm tưởng dị cố” nên tín ngưỡng sai khác, con đường sống khác, phương thức sống khác, đam mê khác, khuynh hướng giá trị cũng khác. Tất cả sai biệt này đều nơi “tâm tưởng dị cố”. Nói chung thế giới hết thảy sai biệt đều bắt nguồn từ tâm niệm sai biệt của con người.
Từ nơi tâm niệm sai biệt đến thế giới sai biệt còn cần có sự tác động của nghiệp. Nghiệp là hành vị của thân – khẩu – ý, vì quan niệm và suy tư không đồng nên dẫn đến hành vi cũng sai khác. Trong Phật giáo chia hành vi của chúng sanh thành 3 loại là hành vi thiện, hành vi ác và hành vi vô ký. Một hành vi sau khi thực hiện sự ảnh hướng của nó không phải sẽ mất đi khi việc làm kết thúc mà trong thực tế mỗi một loại hành vi sẽ tạo thành một kinh nghiêm sống tương ứng được cất giữ trong A Lại Da Thức gọi là chủng tử và sẽ tiếp tục dẫn phát nên hành vi mới. Do vậy, “chủng tử sanh hiện hành, hiện hành huân chủng tử” (種子生現行, 現行熏種子). Sanh mạng là như vậy do nghiệp lực tích lũy từ vô thủy kiếp thúc đẩy mà sanh sanh lưu chuyển không ngừng. Nghiệp lực có tác dụng quan trọng trong dòng sống bất tận của chúng ta, nghiệp lực cũng là sức mạnh thúc đẩy và duy trì dòng sanh mạng. Theo thuộc tính của hành vi, Phật giáo chia nghiệp lực thành Thiện nghiệp và Ác nghiệp. Căn cứ vào việc thọ báo hay không thọ báo mà phân thành Định nghiệp và Bất định nghiệp. Căn cứ vào sự khác biệt của thọ báo mà chia ra Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
1. Định nghiệp và bất định nghiệp
Định nghiệp được y cứ vào thời gian và mức độ nặng nhẹ của thọ báo, ngược lại là bất định nghiệp. Làm thế nào để phân định nghiệp lực thuộc về định nghiệp hay bất định nghiệp? Chủ yếu dựa vào hai điều. Một là động cơ hành vi thuộc cố ý hay vô ý, nếu cố ý tạo tác thì là định nghiệp còn vô ý gây ra thuộc về bất định nghiệp. Nếu tạo ra bất định nghiệp thì trong tương lai có thể thọ báo mà cũng có thể là không, có thể là thọ báo nặng mà cũng có thể là thọ báo nhẹ.
Thứ hai là y cứ vào sự đối trị. Nếu sau khi tạo nghiệp mà biết ăn năn sám hối thì dù tạo định nghiệp nhưng vẫn có thể được thay đổi, trở thành bất định nghiệp. Cũng như khi gây tội nếu biết thành khẩn xin lỗi hoặc thành tâm nhận sai, bồi thường thì có thể đối phương sẽ không còn oán hận mà đạt được hòa giải, bãi nại… Phật giáo đề xướng pháp môn sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và nghịch duyên.
2. Cộng nghiệp và biệt nghiệp
Cộng nghiệp là chỉ cho những nghiệp nhận được hình thành từ những hành vi tương đồng sẽ chiêu cảm nên những quả báo giống nhau. Ví như cùng sống chung trong một thành phố chịu sự ô nhiễm không khí, kẹt xe, khí hậu khắc nghiệt… giống nhau.
Biệt nghiệp là chỉ cho nghiệp nhân cá biệt không giống nhau như sức khỏe của mọi người khác nhau, diện mạo khác nhau, điều kiện vật chất cuộc sống khác nhau đều do biệt nghiệp chiêu cảm nên.
3. Dẫn nghiệp và mãn nghiệp
Dẫn nghiệp là tổng thể quả báo của nghiệp lực chiêu cảm nên. Sanh mạng của hữu tình trong quá trình tiếp diễn sanh về cõi trời, tiếp tục làm người hoặc đọa lạc địa ngục, sanh vào súc sanh đều do dẫn nghiệp quyết định cũng như hỏa tiễn đẩy vệ tinh vậy.
Mãn nghiệp là quả báo sai biệt của nghiệp lực chiêu cảm nên. Như cùng làm người tuổi thọ không đồng, giàu nghèo có khác… Cũng là chó mèo những có con lưu linh xó chợ đầu đường không có ai nuôi, bới rác tìm cơm, còn sợ bị người bắt thịt, ngược lại có con thì được chủ cưng chủ bế, đủ loại thức ăn, chăm sóc tắm rửa… Tất cả sai biệt đều do mãn nghiệp bất đồng tạo nên.
Do chúng sanh tâm niệm sai biệt dẫn đến hành vi sai biệt tạo nên thế giới sai biệt.
CHƯƠNG IV: NHÌN RÕ HIỆN TƯỢNG TÂM VẬT
[Nhi tâm vô sắc bất khả kiến thủ, đản thị hư vọng chư pháp tập khởi, tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở. Tuy các tùy nghiệp sở hiện bất đồng, nhi thật ư trung vô hữu tác giả. Cố nhất thiết pháp giai bất tư nghì, tự tánh như huyễn]
Hiện tượng sai biệt ở thế gian bao gồm hai phương diện tinh thần và vật chất. Còn đối với hiện tượng tâm và vật, phải nhìn nhận ra sao? Nhiều nỗi thống khổ của con người đều do không thể nhận thức chính xác về thế giới, do nhận thức sai lầm mà dẫn đến hành vi sai lạc đưa đến chấp trước, phiền não. Chúng ta muốn thoát khỏi thống khổ trong đời, đầu tiên phải lấy chánh kiến của Phật Pháp để nhìn thấu thế gian xây dựng nên nhân sanh quan chính xác.
[Nhi tâm vô sắc bất khả kiến thủ]. Như trước đã nói thế giới là do nơi tâm niệm của chúng ta mà ra. Vậy tâm là gì? Trong Kinh nói “Tâm vô sắc”. Trong Phật Giáo gọi hiện tượng vật chất là sắc. Bởi vì con người nhận biết hiện tượng vật chất chủ yếu thông qua hình sắc (hình trạng) và hiển sắc (nhan sắc). Nếu không có hình trạng và nhan sắc thì không thể nhận biết được hiện tượng vật chất.
Tâm thì vô sắc vừa không có nhan sắc, vừa không có thể tích, không có một thực tại cố thể, không có hình trạng nhìn không thấy mà sờ cũng không được nên gọi “bất khả kiến thủ”.
[Đản thị hư vọng chư pháp tập khởi]. Đây là cách nhìn riêng biệt của Phật Pháp đối với tâm. Các tôn giáo khác và triết học khi nói đến tâm thường liên kết với linh hồn và cho đó là chủ thể của tâm gọi là “linh hồn” hay gọi là “thần ngã”, cho rằng vạn vật trong sự biến đổi vẫn có cái bất biến là linh hồn, là thần ngã chi phối. Với quan điểm của Phật Pháp, tâm “thị hư vọng chư pháp tập khởi”, không phải là cố định bất biến, lấy cái nhìn thấu triệt của trí tuệ Phật Pháp thế giới phàm phu là do vọng tưởng cấu thành, mê hoặc hiển hiện.
Phật Pháp nói đến vọng tưởng là những cái nghĩ cái nhìn không nhận thức được chân thật, không thông đạt với chân lý đều là vọng tưởng.
Nếu quan niệm chính xác thì có thể “khí ác dương thiện” làm cho sanh mệnh được chuyển y, nhân cách được nâng cao. Nếu quan niệm sai lạc, có thể sẽ bỏ thiện dương ác làm cho tố chất sinh mệnh không ngừng đọa lạc. Tu học Phật Pháp có thể giúp chúng ta xây dựng quan niệm chân chính, vứt bỏ nhận thức sai lầm, nhờ đó cải tiến hành vi của tự thân, khiến đời sống được tịnh hóa, nên gọi sinh mệnh là “chư pháp tập khởi”.
[Tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở]. “Ngã” là thuật ngữ mang các nội hàm: thường, nhất, bất biến, chủ thể.
Thường là vĩnh hằng; Nhất là độc lập; Bất biến là cố định không thay đổi; Chủ thể là có thể chi phối tất cả. Tất cả ý nghĩa này nằm trong “ngã”. Thực ra không có cái gì rời khỏi điều kiện và kinh nghiệm mà tồn tại được. Sinh mệnh không phải là cố định bất biến và không có tự tính nên mới có thể “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”.
Bởi vì tâm thái vô thường biến hóa nên thấy rõ là nó là vô chủ, vô ngã cũng vô ngã sở. Vô ngã là đặc điểm khác biệt lớn của Phật giáo với các tôn giáo khác.
Ngoại đạo nhận định về ngã gồm hai tầng thứ nội hàm chính: Một là Thượng đế, thiên thần là “đại Ngã” cũng gọi là “thần Ngã” chi phối tất cả vũ trụ. Hai là linh hồn gọi là “tiểu ngã” chi phối cuộc sống con người. Phật Pháp lấy trí tuệ duyên khởi quán sát vũ trụ thấy rằng không tồn tại vị thần linh chi phối vũ trụ, cũng không tồn tại linh hồn chi phối sinh mệnh tức “tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở”.
[Tuy các tùy nghiệp sở hiện bất đồng, nhi thật ư trung vô hữu tác giả]. Nhìn đến thế giới vật chất, Đức Phật dạy, hết thảy hiện tượng vũ trụ nhân sanh tuy tùy vào cảnh giới tư tưởng và nghiệp lực bất đồng của mỗi chúng sanh mà hiển hiện nhưng trong thực tế vạn pháp ở thế gian không có người sáng tạo, không có một người không dựa vào điều kiện mà chi phối được.
[Cố nhất thiết pháp giai bất tư nghì, tự tánh như huyễn]. Tự tánh là một thể thực tại chân tướng thật của vạn pháp ở thế gian, không như chúng ta nghĩ là một thực thể độc lập tồn tại bất biến. Như con người mới đầu không biết mộng cảnh là giả nên khi nằm mộng sẽ thấy kinh sợ lấy sự cầu đảo để hóa giải. Đứa trẻ không biết người trong kính là giả nên khi nhìn thấy những gì trong kính thường bắt, thường cười, cho đó là thật. Con người hiện tại biết mộng cảnh hư giả vẫn xem vạn pháp thế gian là thực hữu, xem địa vị, tài sản là thực có. Vì xem là thực có nên muốn có được, nên để tâm đến danh lợi được mất, để tâm mong sức khỏe sống lâu, hy vọng sự nghiệp vĩnh hằng, gia đình vĩnh hằng. Tam khổ trong Phật giáo có đề cập đến “hành khổ” tức là sự vô thường biến hóa đem đến điều thống khổ. Vô thường vốn là quy luật của vũ trụ, nhân sanh không phải là nhân khổ. Với các bậc thánh giải thoát hành khổ không đem đến khổ đau. Chúng sanh vì không nhận thức chính xác thế giới nhìn vạn vật đều vĩnh hằng khi vô thường đến thống khổ như bóng với hình. Tâm kinh nói “ngũ uẩn giai không” là để bạt trừ chúng sanh chấp trước thật hữu. Là người học Phật phải nhìn thấy thiếu xót trong nhận thức hiện hữu, không lấy cảm quan mà nhận thức thế giới, cũng không quá tin vọng tưởng của mình, nhìn ra cho được tự tánh như huyễn của các pháp.
CHƯƠNG V: SỰ KHÁC BIỆT CỦA VẠN VẬT HỮU TÌNH
[ Trí giả tri dĩ, ưng tu thiện nghiệp, dĩ thị sở sanh uẩn, xứ, giới đẳng, giai tất đoan chánh, kiến giả vô yểm.
Long Vương! Nhữ quán Phật thân, tùng bá thiên ức phước đức sở sanh, chư tướng trang nghiêm, quan minh hiển diện, tế chư đại chúng, thiết vô lượng ức tự tại Phạm Vương tất bất phục hiện, kỳ hữu chiêm ngưỡng Như Lai thân giả, mạc bất mục huyển.
Nhữ hựu quán thử chư Đại Bồ Tát diệu sắc nghiêm tịnh, nhất thiết giai do tu tập thiện nghiệp phước đức nhi sanh.
Hữu chư thiên long bát bộ chúng đẳng, đại oai thế giả, diệc nhân thiện nghiệp phước đức sở sanh.
Kim đại hải chung, sở hữu chúng sanh, hình sắc thô bỉ, hoặc đại hoặc tiểu, giai do tự tâm chủng chủng tưởng niệm tác thân ngữ ý chư bất thiện nghiệp, thị cố tùy nghiệp, các tự thọ báo.
Như kim đương ưng như thị tu học, diệc linh chúng sanh liễu đạt nhân quả, tu tập thiện nghiệp. Nhữ đương ư thử chánh kiến bất động, vật phục đọa tai, đoạn trường kiến trung! Ư chư phước điền hoan hỷ kính dưỡng, thị cố nhữ đẳng diệc đắc nhân thiên tôn kính cúng dường]
Đoạn kinh văn đề cập đến sự sai biệt của mạng vận hữu tình và nghiệp lực.
[ Trí giả tri dĩ, ưng tu thiện nghiệp] Trí giả: tức là người có trí tuệ. Trí tuệ này là năng lực quan sát chân tướng của chư pháp, chỉ cho chúng ta nhìn thấu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Nếu không thì chỉ là tri thức phân biệt của thế gian và như vậy không gọi là Trí giả. Cho nên học tập Phật Pháp không nhằm mục đích tăng trưởng trí thức mà nhằm hiểu giải chân tướng sanh mạng, hiểu tri nhân quả nguyên lý. Hiểu rõ như vậy tất sẽ chiêu cảm nên quả như vậy chỉ có tu thập thiện nghiệp mới có thể nâng cao đời sống sanh mệnh.
[ Dĩ thị sở sanh uẩn xứ giới đẳng, giai tất đoan chánh, Kiến giả vô yểm] Hiện thế đã trồng thiện nghiệp trong tương lai mới chiêu cảm nên thân tâm và hoàn cảnh ngoại tại thanh tịnh trang nghiêm khiến cho mọi người thấy hình, nghe tiếng đều sanh tâm hoan hỷ, không sanh chán ghét.
Uẩn, Xứ, Giới là các phạm trù quy nạp và giải thích của Phật giáo với thế giới. Hiện tượng của thế gian tuy có sai biệt nhưng từ góc độ khảo sát của Phật giáo đều không ngoài ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới hoặc ngũ uẩn, lục xứ, lục giới. Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc: hiện tượng vật chất, thọ, tưởng, hành, thức: hiện tượng tinh thần phân tích rõ ràng các loại tâm lý. Vạn pháp thế gian cũng không ngoài hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần.
Thập nhị xứ tức lục căn và lục trần. Lục căn chỉ cho sinh lý mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Là sáu con đường dẫn để chúng hữu tình nhận thức thế giới. Chúng ta nhận biết thế giới bên ngoài chủ yếu thông qua các phương diện là mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý tư duy, chúng ta nhận thức thế giới và trình độ nhận thức thế nào đều từ nơi lục căn. Nếu mắt mù thì mất đi sự nhận thức về thế giới màu sắc, tai điếc thì mất đi sự nhận thức về thế giới âm thanh, lục căn cũng như sáu chiếu máy nhận thức thế giới của chúng ta, nếu máy chính xác thì sự nhận thức sẽ sâu sắc rõ ràng, nếu máy móc thô sơ thì sự nhận thức sẽ mơ hồ nông cạn. Tu hành chính là việc tiến hành gia công đối với sáu chiếc máy đó để từ đó quan sát chân thật thế giới. Lục trần là thế giới nhận thức của lục căn gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc hoàn cảnh, ý tư duy pháp trần. Lục căn, lục trần là năng nhận thức và sở nhận thức thế giới sanh ra lục thức tạo nên tư duy thế giới.
Giới thập bát giới tức lục căn, lục trần, lục thức. trong đó lục căn: thế giới sinh lý, lục trần: thế giới vật lý, lục thức: thế giới tâm lý. Thế giới không ngoài ba phương diện là sanh lý, vật lý, tâm lý. Chúng ta có được thế giới như thế nào chủ yếu là từ nơi hành vi và nhận thức. Hành vi ra sao sẽ chiêu cảm nên thế giới như vậy. Năng lực nhận thức thế nào thì sẽ có trình độ nhận thức thế giới thế ấy. vì vậy, Phật giáo cho rằng cải tạo và nâng cao năng lực nhận thức là tiền đề để cải tạo thế giới.
[Long Vương! Nhữ quán Phật thân] Từ đoạn kinh văn này Đức Phật căn cứ vào hiện trạng tại Pháp hội đưa ra những ví dụ để nói rõ nghiệp lực ảnh hưởng đến con người và sinh mạng.
Đầu tiên lấy hình ảnh Phật thân làm ví dụ. Đối với tất cả chúng sanh Đức Phật là trang nghiêm thù thắng nhất, phước đức cao tột độ. Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân, Ứng thân. Pháp thân là thân pháp tánh chân như mà tất cả chư Phật đều chứng đắc, Pháp thân không có tướng trạng. Báo thân là thân pháp lạc nội chứng tự thọ dụng của chư Phật khi chứng đắc phước trí viên mãn hiện ra có tám vạn bốn nghìn tướng hảo, thanh tịnh trang nghiêm là Chư Phật, vì chư Đại Bồ Tát mà thị hiển thì người thường không thấy được. Ứng thân là thân ứng hóa là Đức Phật vì chúng nhị thừa và phàm phu thị hiện ra thân vàng cao trượng sáu như con người nhưng đầy đủ 32 tướng đại trượng phu, 80 vẻ đẹp tướng hảo viên mãn thanh tịnh trang nghiêm.
[ Thiết vô lượng ức, Tự tại Phạm Vương, tất bất phục hiện] Phạm Vương là thiên chủ của cõi trời sắc giới nhị thiền thiên còn gọi là Đại Phạm Thiên, Đại Tự tại thiên. Người Ấn Độ cho rằng Đại Phạm Thiên là vị thần chí cao vô thượng của thế gian, mạng vận của con người cũng do Đại Phạm Thiên quyết định. Tuy Phạm Vương phước báo vô lượng, có thể phóng hào quang to lớn nhưng khi Đức Phật phóng quang thì vô lượng ức Phạm Thiên phóng ra hào quang cũng không sáng bằng, cũng giống như bao nhiêu ánh sáng của đèn cũng mất tác dụng dưới ánh sáng mặt trời.
[ Kỳ hữu chiêm ngưỡng Như Lai thân giả, mạc bất mục huyển] Nếu người nào nhìn thấy hào quang ấy đều được chiếu rọi dưới vầng hào quang ấy.
[ Như hữu quán thử chư Đại Bồ Tát, diệu sắc trang nghiêm, nhất thiết giai do tu tập thiện nghiệp phước đức như sanh] Đức Phật tiếp tục nói với Long Vương rằng ông xem chư Đại Bồ Tát Văn Thù, Quan Âm, Phổ Hiền phước đức, trí tuệ của các vị tuy không bằng Phật nhưng cũng rất thanh tịnh, trang nghiêm, khiến cho người thấy đều sanh cung kính, các vị không phải sanh ra vốn được như vậy, tướng mạo viên mãn phải do tu tập thiện nghiệp, tích tập phước đức mới thành tựu được như vậy. Thiện nghiệp ở đây phạm vi rất rộng không chỉ có thập thiện nghiệp mà bao gồm tất cả pháp môn tu tập trong ngũ thừa gồm 37 phẩm trợ đạo, lục dộ, tứ nhiếp. Chỉ từ nơi tu tập tất cả thiện nghiệp chư Đại Bồ Tát mới thành tựu phước đức trang nghiêm như vậy.
[ Hữu chư Thiên Long Bát Bộ chúng đẳng, đại uy thế giả, diệc nhân thiện nghiệp phước đức sở sanh]. Thiên Long Bát Bộ gồm Thiên Nhân, Long Vương, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lầu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già cũng có uy đức thế lực rất lớn, cũng đều do tu tập bố thí, trồng nhiều thiện nhân trong đời quá khứ.
[ Kim đại hải trung sở hữu chúng sanh, hình sắc thô bỉ, hoặc đại hoặc tiểu, giai do tự tâm chủng chủng tưởng niệm, tác thân ngữ ý chư bất thiện nghiệp] nhìn thấy tướng hảo trang nghiêm của Chư Phật Bồ Tát, uy đức của Thiên Long Bát Bộ rồi nhìn lại trong biển cả “binh tôm tướng cá” hình sắc bất đồng đều cho khởi tâm động niệm của chúng sanh mà ra. Cũng do ba nghiệp thân khẩu ý tạo nghiệp ác nên đọa ác đạo, hình dạng xấu xi, tướng mạo không trang nghiêm.
[ Thị cố tùy nghiệp, cát tự thọ báo] thông qua quán sát đối với các loài chúng sanh từ tướng hảo trang nghiêm của chư Phật, Bồ Tát đến hình tướng quái dị của “binh tôm tướng cá” chúng ta có thể nhận ra rằng chúng sanh đều thùy theo nghiệp lực mà dẫn đến quả báo như vậy, nhân như vậy quả sẽ như vậy.
[ Nhữ kim đương ưng như thị tu học, diệc linh chúng sanh liễu đạt nhân quả, tu tập thiện nghiệp] Đây là lời Đức Phật khuyến dạy đến tất cả mọi chúng sanh. Từ đó về sau từ nơi nhân địa mà bắt đầu cải tạo đời sống. Đồng thời cũng khuyên bảo chúng sanh thân tín nhân quả tu tập thiện nghiệp. Thiện nghiệp ở đây không phải chỉ là thập thiện mà bao hàm tất cả mọi hành vi tự lợi, lợi tha.
[Nhữ đương ư thử, chánh kiến bất động] Đối với sự chân thật bất hư của nhân quả phải xác tín vô nghi không lay động, không rơi vào đoản kiến hay thường kiến.
[Vật phục đọa tại đoản thường kiến trung] Chánh kiến của Phật Pháp là trung đạo kiến xa lìa đoản kiến và thường kiến. Đoản kiến là không tin có nhân quả cho rằng người chết như đèn tắt, điều thiện ác đã làm theo sinh mạng kết thúc cũng mất đi. Thường kiến thì cho thế gian tồn tại bất kiến, người mãi mãi là người, heo mãi là heo. Nhân quả của Túc Mạng Luận thuộc về thường kiến. Cái nhìn nhân quả của Phật giáo được xây dựng trên cơ sở duyên khởi là biện chứng chứ không phải là hình như thượng.
[ ư chư phước điền, hoan hỉ kính dưỡng] Sau khi hiểu rõ nhân quả nên dùng tâm hoan hỉ để trồng cấy ruộng phước của mình. Phước điền có ba loại sau:
– Kính điền: đối với Tam bảo cung kính cúng dường
– Ân điền: với cha mẹ, cùng những người có ân với mình phải cung kính cúng dường.
– Bi điền: Sanh tâm bi mẫn đối với người nghèo khó ở thế gian, tích cực giúp đỡ họ.
Đối với ba loại phước điền trên, chúng ta phải sanh tâm hoan hỷ gieo trồng, cung kính cúng dường.
[Thị cố nhữ đẳng diệc đắc thiên nhân tôn kính cúng dường] Nếu làm được như thế, thì có thể tăng trưởng phước báo, uy đức từ đó mà được thế nhân tôn trọng kính ngưỡng như Chư Phật, Bồ Tát vậy.
Thông qua việc học tập đoạn kinh văn trên. Chúng ta cơ bản có thể hiểu được cái nhìn về vũ trụ nhân sanh của Phật giáo, hiểu được chỗ khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Trọng tâm của “nhân quả quán” của Phật pháp là luân lý về nghiệp báo luân hồi điều này chỉ Phật giáo mới có. So với thuyết do thần sáng tạo của các tôn giáo khác thuyết nghiệp báo của Phật giáo có bốn đặc điểm sau:
- Thuyết nghiệp lực cho chúng ta biết mạng vận vốn từ tự lực mà không do tha lực, do hành vi của bản thân quyết định không phải do sức mạnh của thần linh bên ngoài chi phối.
- Mọi người đều bình đẳng trước nghiệp lực. Thần giáo cho rằng con người là do thần sinh ra và sắp đặt sẵn sự sai biệt như vậy và không phải ai cũng được thần sủng ái. Như Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá, Thủ Đà La. Sanh ra đã có sự cao quý, thấp hèn bất đồng. Dưới cái nhìn của Phật giáo sanh mạng khởi điểm tuy có cao thấp bất đồng nhưng đều do tự mình tạo ra, là do nghiệp lực nhiều đời quyết định mà không phải do trời định.
- Bởi vì sanh mạng có thể cải đổi nên tương lai vẫn luôn sáng lạng. Nếu như chúng ta tin sâu nhân quả thì sẽ tinh tấn chỉ ác hành thiện làm cho sinh mạng trong tương lai hướng về nơi ánh quang minh. Thần giáo cho rằng sau khi sanh lên trời rồi thì vĩnh viễn ở đó hưởng phước, đọa xuống địa ngục rồi thì mãi mãi mắc đọa ở đó không bao giờ thoát ra được. Từ cái nhìn của Phật giáo thì dù sanh lên thiên đường hay đọa xuống địa ngục đều là tạm thời. Phước thiên hưởng hết vẫn có thể bị đọa lạc, chúng sanh đọa ở địa ngục khi nghiệp báo tận. Chỉ cần biết tu tập thiện hạnh vẫn có thể được vãng sanh Cực Lạc, cho đến giải thoát sanh tử cho nên nói theo quan điểm của Phật Giáo thì mạng vận nắm bắt trong tay của mỗi người mà không phải là điều đã thành bất biến.
- Nhân quả bất hư, thiện ác hữu báo. Nhìn từ góc độ nhân quả thì nghiệp không làm không có, nghiệp tạo rồi không mất. Nghiệp lực không tạo thì không thể chiêu cảm nên quả báo được, nghiệp lực đã tạo nếu không dùng được phương pháp đối trị đoạn trừ thì nhất định sẽ chiêu cảm nên quả báo chỉ khác là thời gian đến sớm và đến chậm mà thôi.
CHƯƠNG VI: ĐỨC HẠNH CĂN BẢN CỦA HỌC PHẬT
[Long Vương đương tri: Bồ Tát hữu nhất pháp, năng đoạn nhất thiết chủ ác đạo khổ. Hà đẳng vi nhất? Vị ư trú dạ, thường niệm tư duy, quán sát thiện pháp, linh chư thiện pháp niệm niệm tăng trưởng, bất dung hào phân bất thiện gián tạp. Thị tức năng linh chư ác vĩnh đoạn, thiện pháp viên mãn, thượng đắc thân cận chư Phật Bồ Tát cập dư thánh chúng. Ngôn thiện pháp giả, vị Nhân Thiên thân, Thanh Văn, Bồ Đề, Độc Giác Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề, giai y thử pháp, dĩ vi căn bản nhi đắc thành tựu, có danh thiện pháp. Thử pháp tức thị thập thiện nghiệp đạo. Hà đẳng vi thập? Vị năng vĩnh ly sát sanh, thâu đạo, tà hạnh, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến]
[Long Vương đương tri, Bồ Tát hữu nhất pháp, năng đoạn nhất thiết chư ác đạo khổ] Đức Phật nói cho Long Vương biết đối với người tu tập Bồ Tát đạo có một pháp môn có thể đoạn trừ tất cả nỗi khổ của ác đạo.
“Chư ác đạo” chỉ cho tam ác đạo. Phật Giáo cho rằng nơi chốn sanh tồn của chúng hữu tình chủ yếu có lục đạo là: Thiên, Nhân, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong đó Thiên Nhân, A Tu La thuộc tam thiện đạo, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục là tam ác đạo vì hoàn cảnh nơi ấy thật là hiểm ác, chúng sanh ở đó phải chịu vô lượng khổ sở, sống lại chết đi liên tục không ngừng.
[Hà đẳng vi nhất? Vị ư trú dạ thường niệm tư duy, quán sát thiện pháp] Nỗi khổ trong đường ác đạo làm cho người người phải sợ. Chúng ta phải tu pháp môn gì để lìa xa ác đạo, đoạn trừ chư khổ? Đó chính là phải ức niệm, tư duy, quán sát thiện pháp. Bất luận là ngày hay đêm đều phải giờ giờ nhớ nghĩ không được quên sót. Trong quá trình học Phật kiểm soát niệm khởi vô cùng quan trọng đó là điểm mấu chốt của việc tu hành. Sự sai biệt của thế gian, của nhân sanh cho đến việc luân chuyển sanh tử của chúng sanh căn nguyên đều ở nơi chỗ này. Cũng chính là ở đoạn kinh trước đã nói “tâm tưởng dị cố” vì do tâm niệm sai biệt dẫn đến hành vi sai biệt nên chỗ sanh xứ tồn tại của hữu tình cũng từ đó mà sai biệt cho nên nói “Nhất thiết thiện ác nghiệp báo, Phàm thánh chi biệt, vô tất tại ư tâm niệm sai biệt” Vậy nhìn từ góc độ khác tuy tâm niệm của chúng sanh thiên sai vạn biệt nhưng tựu trung cũng chỉ là sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp, chỉ là y, thực, trụ, hành, chỉ là danh lợi tiền tại, chỉ là nhân ngã thị phi. Chúng ta tự quán sát mỗi khởi tâm động niệm của chính mình thì sẽ thấy rằng tất cả mọi hoạt động đều không vượt khỏi các phương diện ấy. Học Phật tu hành là phải luyện tập và cải tạo tâm niệm của mình. Phật và chúng sanh khác nhau là ở chỗ này. Lục tổ Đàn kinh nói “ Tiền niệm mê tức chúng sanh, hậu niệm ngộ tức Phật” từ thiên nhơn đạo sư viên mãn bi trí nhị đức đến chúng sanh muôn loại trong lục đạo nhìn thấy đều có sự khác biệt nhưng điểm quan trọng mấu chốt của sự sai khác này, cũng chính là sự sai khác giữa Mê và Ngộ.
[Linh chư thiện pháp, niệm niệm tăng trưởng, bất dung hào phân bất thiện gián tạp] Bởi tâm chúng ta luôn tương ứng với thiện pháp nên làm cho thiện pháp ngày một lớn mạnh và ngược lại cũng làm cho phiền não, tham, sân, si, các loại dục vọng cũng sẽ giảm đi. Đến cuối cùng không còn một tâm bất thiện tạp nhiễm nào nữa. Chúng ta có thể quán sát thống kê xem trong tâm niệm của chính mình mỗi một giờ trải qua có bao nhiêu niệm khởi tương ứng với phiền não tham, sân, si có bao nhiêu niệm khởi khế hợp với các thiện pháp giới, định, tuệ, từ, bi, hỷ, xả. Nếu thường quán sát sự biến chuyển của niệm đầu thì sẽ sớm phát hiện được phiền não ngay từ khi chớm phát sanh để khắc chế sự phát triển của nó. Thông qua thời gian dài trường kỳ luyện tập làm cho các niệm thiện không ngừng tăng trưởng cuối cùng đạt đến niệm niệm tương tục, và hiệu quả [Bât dung hào phân, bất thiện gián tạp]
[Thị tức năng linh chư ác vĩnh đoạn, thiện pháp viên mãn, thường đắc thân cận Chư Phật Bồ Tát cập dư thánh chúng] Khi tâm niệm thường hằng tương ứng với Phật Pháp, ác niệm theo đó tự nhiên tiêu trừ và được hằng phục, làm cho thiện pháp được viên mãn, thời thường thân cận chư Phật Bồ Tát và các vị thánh hiền.
[Ngôn thiện pháp giả: Vị Nhân Thiên thân, Thanh Văn Bồ Đề, Độc Giác Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề, giai y dĩ thử pháp dĩ vi căn bản nhi đắc thành tựu, cố danh thiện pháp] Chúng ta đã nói đến thiện pháp rất nhiều lần, vậy thiện pháp là gì? Đoạn kinh văn đã định nghĩa thiện pháp một cách đơn giản là thiện pháp được xác định chủ yếu từ nơi quả báo chiêu cảm nên để xác định hành vi thuộc về thiện hay ác phàm những hành vi khiến cho chúng ta thành tựu quả báo nhân thiên và quả vị tam thừa thì đều thuộc về thiện pháp cũng chính là hành vi làm cho đời sau tiếp tục làm người, sanh về cõi trời, thành tựu quả Thanh Văn, A La Hán, thành tựu quả Độc Giác Bích Chi Phật, hoặc thành tựu viên mãn quả vị Bồ Đề. Ngược lại các pháp làm cho chúng ta đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều thuộc về ác pháp.
Trong Thành Duy Thức Luận cũng có định nghĩa về Thiện Pháp là: “Năng vi thứ thế tha thế thuận ích cố danh vi thiện” là từ tiêu chuẩn lợi ích trước mắt và lâu dài để đo lường về thiện ác. Hành vi thiện không chỉ đem lại lợi ích cho hiện tại mà đồng thời cũng có lợi ích ở tương lai. Một số hành vi tuy có thể đem đến khoái lạc trước mắt, nhưng có hại trong tương lai thì không thể gọi đó là thiện pháp được. Ví như ăn một bữa tiệc đầy sơn hào mỹ vị có thể là rất vui vẻ lúc ấy nhưng chẳng được lợi lạc gì ở tương lai thì không thuộc về thiện pháp nếu vì đó mà còn tạo ra các nghiệp sát nữa thì thuộc về phạm vi của ác pháp. Cho nên nói thiện pháp phải từ lưỡng thế (đời này, đời sau) để lý giải. Như việc bố thì để giúp đỡ người khác trước mắt thì có thể thành tựu thiện tâm của bản thân. Đồng thời, hành động đó không những có lợi ích cho đời sống hiện tại mà còn đem lại kết quả tốt cho đời sống vị lai. Những hành vi này đều thuộc về thiện pháp.
[Thử pháp tức thị thập thiện nghiệp đạo. Hà đẳng vi thập? Vị năng vĩnh ly sát sanh, thâu đạo, tà hạnh, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến] Cái gì là thập thiện tháp? Đó chính là phải triệt để vĩnh ly sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến. Ở đây mấu chốt là ở chỗ phải “Vĩnh ly” nghĩa là phải vĩnh viễn không làm. Trong cuộc số