Bạn đọc đã email cho tôi đường dẫn để vào xem bài “Phóng sinh chim, cá trong lễ cầu quốc thái dân an”, đặc biệt lưu ý đến phần phản hồi, được đăng trên VN Express, từ ngày 17/2/2014.
Phản hồi rất nhiều và cũng rất đa dạng, không ít ý kiến trái ngược. Đến khi viết bài này, tối ngày 18/2/2014, đã có 331 phản hồi. Các phản hồi được xếp theo số người thích. Phản hồi được nhiều người thích nhất có 1189 người bấm “thích” có nội dung là: “Cách duy nhất để phóng sinh là bỏ thủ tục phóng sinh, sẽ không còn ai bắt”.
Các phản hồi khác xoay quanh tranh luận nên hay không nên phóng sinh như thế, tức là thả ra những con vật người khác đã bắt vào rồi bán. Nhiều phản hồi tỏ ra rất bức xúc phản đối phóng sinh như một nguyên nhân thúc đẩy việc lùng bắt sinh vật, phóng sinh không kể đến hiệu quả sống của sinh vật, phóng sinh chỉ cho có hình thức.
Tất nhiên, Phật tử chúng ta không tán thành những ý kiến không thấu hiểu sự vi diệu, thiện lành của phóng sinh.
Tuy vậy, cũng cần lưu ý đến các vấn đề sau, là nội dung chính của bài viết này:
– Sự phản đối đối với việc tạo nhu cầu bắt sinh vật để có người thả.
– Phóng sinh sao cho thực chất, hiệu quả.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu về những phản đối.
Những ý kiến phản đối không phải không đồng tình với lòng từ bi của nhà Phật. Cái họ phản đối là cách làm.
Tuy nhiên, việc tập họp lại quá nhiều ý kiến phản đối như thế trên truyền thông vô hình trung lại tạo ra hình ảnh không có lợi cho Phật giáo trên truyền thông đại chúng.
Những ý kiến phản đối đã làm cho công chúng nghĩ hoạt động phóng sinh được miêu tả qua ảnh và chú thích chỉ là một hoạt động hình thức, mê tín, không kể đến hiệu quả, vô tình gián tiếp hại thêm sinh vật, thúc đẩy việc bắt bẫy chim cá để cung ứng cho nhu cầu phóng sinh.
Hệ quả của việc tập trung nhiều ý kiến phản đối, cũng như nhiều người bày tỏ thái độ ủng hộ việc phản đối bằng cách bấm thích, tất yếu sẽ làm một số đông hơn nữa có cái nhìn tiêu cực về đạo Phật, rằng những Phật tử chỉ là những người thiển cận, thiếu hiểu biết, ngờ nghệch, làm những việc không tính đến kết quả.
Người theo đạo Phật có thể vững tin ở tâm thiện lành, từ bi và phước báu trong việc phóng sinh, để qua một bên những ý kiến khác biệt.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đều biết người theo đạo Phật phải đặt hạnh lắng nghe lên hàng đầu. Bất kể đến điều người khác đã nói và nói nhiều không phải là tư duy nhà Phật.
Hơn nữa, việc duy trì một cách bất kể hình ảnh không hay, tiêu cực về Phật giáo trên truyền thông cũng là điều người Phật tử chúng ta không thể chấp nhận.
Phật tử chúng ta lắng nghe những ý kiến không đồng tình với cách làm phóng sinh. Nhưng, cụ thể, lắng nghe như thế nào và có những động thái thế nào cho phù hợp?
– Trước hết, vẫn là kiên trì mục tiêu phóng sinh, tinh thần phóng sinh, quan điểm cần phải phóng sinh. Phóng sinh là một yêu cầu không thể thiếu được đối với việc tu hạnh từ bi, tích lũy phước đức.
– Những biện pháp phóng sinh cụ thể là điều có thể xem xét lại, như phóng sinh con gì, đặc điểm ra sao, vào thời điểm nào là thích hợp, làm sao bảo đảm phóng sinh có kết quả, có thực chất, phóng sinh sao cho không gián tiếp thúc đẩy hoạt động bẫy bắt sinh vật…
– Cần xác định rõ tỷ lệ sinh vật được cứu tử cao, phóng sinh có kết quả, không tạo nên những tác động tiêu cực ngoài ý muốn làm phương hại đến sinh vật thì người phóng sinh mới thật có phước lớn. Phóng sinh nhưng tạo ý kiến không có lợi cho đạo Phật trên truyền thông, tỷ lệ sinh vật thực tế được phóng sinh không cao, vô tình thúc đẩy việc bẫy bắt sinh vật… là những điều cần phải cân nhắc.
Tóm lại, phóng sinh phải thực chất, tạo được sự tán thành, đồng thuận, nhất trí hoàn toàn, tuyệt đối. Cũng cần có cái nhìn xa về phóng sinh, làm sao thúc đẩy xã hội cùng nỗ lực phóng sinh, phát tâm đại hoan hỷ phóng sinh, không còn những ý kiến bất bình, trái ngược.
Do đó, việc thay đổi ở đây cần tập trung vào cách thức phóng sinh.
Trước hết, cần xác định làm thế nào để phóng sinh thật sự có hiệu quả, đi vào thực chất. Mua chim, mua cá ở những người bán chim, bán cá, những người đặt hàng những người bẫy chim, lưới cá… liệu có ổn không? Nếu không thì cần phóng sinh con gì, từ nguồn nào, vào môi trường nào, vào thời điểm nào? (1).
Trước đây, chúng tôi đã đề xuất cần có cẩm nang phóng sinh, đưa phóng sinh vào thực chất, tạo thuận lợi thúc đẩy phóng sinh, thế nhưng đến nay vẫn chưa có.
Người Phật tử vẫn tiếp tục mua chim mua cá ở những người bán chim bán cá, thậm chí trực tiếp ở người săn chim, đánh cá, rõ ràng tạo nhu cầu bẫy bắt chim cá, không tránh khỏi thúc đẩy tàn hại sinh vật. Nếu cứ tiếp tục làm theo cách phóng sinh cũ, ngoài việc không đi vào thực chất, thực tế không phóng sinh được bao nhiêu, có thể gây hại cho sinh vật, thì mỗi lần báo chí có đưa tin về phóng sinh thì lại làm dậy lên làn sóng ý kiến bất bình, nhận xét tiêu cực về Phật giáo, kích thích những trách cứ đối với Phật tử.
Vì vậy, việc phóng sinh chẳng những không được tạo nên sự thúc đẩy gián tiếp đối với việc săn bắt sinh vật, mà cũng còn nên chú ý đến việc không nên đưa những sinh vật chỉ thích hợp nuôi dưỡng nhân tạo vào không gian tự nhiên, hay phóng sinh những sinh vật có thể gây hại cho môi trường.
Có tạo nên môi trường truyền thông tốt cho việc phóng sinh, thì mới vận động được nhiều người cùng phóng sinh, hoan hỷ phóng sinh. Như thế, từ bi mới thật có nhiều, công đức mới thật sự lớn.
Phóng sinh, suy cho cùng cũng vì mục tiêu không sát sinh. Vì vậy, đồng thời với truyền thông, tạo đồng thuận phóng sinh, thì cũng cần truyền thông cố định không sát sinh, không ăn thịt, không tàn phá môi trường sống sinh vật. Đó là một dạng phóng sinh tích cực, hiệu quả, mà phước báu chắc chắn là lớn.
MT
(1) So với trước đây, việc phóng sinh của Phật tử đã có nhiều lựa chọn hơn, theo hướng bảo đảm phóng sinh thật sự hiệu quả. Thí dụ, thay vì chỉ thả chim tại chùa, vì không bao lâu chim bị bắt lại vì bị cắt cánh hoặc không còn đủ sức bay, thì người phóng sinh đã thả cá, ốc, cua…, thay vì chỉ thả ở bờ sông thì đã đi thuyền ra giữa sông hay lựa chọn địa điểm khác mà sinh vật được phóng sinh có khả năng sống sót cao.