Nhân dịp này, trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tiểu sử HT. Thích Hải Tràng và một số hình ảnh Lễ Khai Kinh.
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH HẢI TRÀNG
I. THÂN THẾ
Nhớ lại thuở Giáp Thân năm 1884, tại làng Tân Quý Chợ Lớn nơi Hòa Thượng chào đời, trong một gia đình đạo hạnh, cụ Ông là Võ Văn Nghĩa, cụ Bà là Trần Thị Tín, Ông Bà đặt tên cho Hòa Thượng là Võ Văn Nghiêm.
II. THIẾU THỜI – XUẤT GIA
Năm 1900 Hòa Thượng vừa lên 16 tuổi, Ngài xin phép Song thân Xuất gia và Thọ giới tại chùa Long Huê (Gò Vấp) được Hòa Thượng Thích Huệ Từ (tức HT. Kim) hoan hỷ và chuẩn nhận và cho pháp danh Giác Trang hiệu Hải Tràng.
Năm 1909 được Bổn sư cho phép nhập đàn thọ Cụ Túc Giới năm ấy cố Hòa Thượng tròn 25 tuổi và thiện duyên đã đến, Ngài được Hòa Thượng Bổn Sư gửi sang chùa Long Phước tỉnh Vĩnh Long, rồi đến chùa Tân Long Sa Đéc để tham học giáo điển của Như Lai, người rất tinh cần tu học suốt 8 năm trường, nơi đây là pháp vũ thiền lâm đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, được Chư Tôn Đức mến thương.
III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO
Năm 1914, khi cố Hòa thượng Chơn Hội Sư-tổ chùa Thanh Trước Gò Công viên tịch… thì Hòa thượng Long Huê về lo tổ chức lễ tang và giới thiệu đề cử cố Hòa Thượng Hải Tràng kế vị làm trụ trì Tổ đình Thanh Trước. Trong thời gian giữ chức trụ trì Thanh Trước, Ngài thường đi các tỉnh Hậu Giang để giảng dạy kinh Pháp Hoa và tại trụ xứ (Thanh Trước).
Năm 1922, Ngài mở khóa an cư tại chùa Thanh Trước và cho khắc bản in kinh Pháp Hoa được 200 bộ. Cũng mùa an cư nầy, có tổ chức Đại giới đàn, Chư Tôn Trưởng Lão cung thỉnh Ngài lên ngôi vị Hòa Thượng Đàn đầu. Sau khi mãn hạ, cố Hòa Thượng cho trùng tu ngôi bảo điện Thanh Trước, một danh lam thắng cảnh của tỉnh Gò Công.
Đến năm 1936 vì tâm hoài Tịnh độ, nên Ngài giao chùa Thanh Trước lại cho để tử là (Hòa Thượng Thích Hoằng Thông làm Trụ Trì) và Ngài trở về Đức Hòa – Long An lập an tu tịnh nghiệp hầu mong ngày an nhiên tự tại, tuệ giác khai thông.
Vì sứ mạng độ sanh chưa cho phép Ngài dừng lại nơi đây, nên năm 1938 cố Hòa Thượng Hải Tràng về Phú Nhuận qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Chơn Không để kiến tạo chùa Phổ Quang cùng với các vị cư sĩ như: Thiện thông, Chiêm Quang Hồng v.v… chung lo Phật sự.
Năm 1946, cố Hòa Thượng và Ban Trị Sự chùa Phổ Quang kẻ công người của hưng công tái tạo chùa lá thành chùa ngói dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Chơn Không. Rồi cũng bắt đầu từ năm ấy, cứ tùy phương tiện tu bổ và kiến tạo thêm lên.
Năm 1951 khi Giáo Hội Tăng già Nam Việt thành lập, Ngài được cung thỉnh vào Hội đồng Trưởng lão và cũng năm ấy Giáo Hội lại cung thỉnh cố Hòa Thượng giữ chức Chứng Minh Đạo sư.
Năm 1956, cố hòa thượng hợp tác với quý Hòa Thượng Thiện Tường (chùa Vạn Thọ), Hòa Thượng Hành Trụ (chùa Giác Nguyên) khai hạ tại chùa Giác Nguyên để đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp.
Năm 1959, sư cụ kết hợp với Ban Trị Sự Giáo Hội Tăng già mở khóa an cư kiết hạ tại chùa Thanh Trước Gò Công.
Năm 1961 khi tuổi đã cao, nhưng chí nguyện hoằng pháp lợi sanh vẫn không suy kém, nên Ngài mở hạ tại chùa Phổ Quang để trang bị cho Tăng Ni đầy đủ giới đức, học hạnh kiêm ưu, khế vãng khai lai, phò trì đạo mạch. Cũng năm này, cố Hòa Thượng giao chức trụ trì cho đệ tử (là Hòa Thượng Thích Thiện Thông) để Ngài theo bản nguyện tu tịnh nghiệp của mình mà an dưỡng tinh thần.
Năm 1963, khi Pháp nạn đã qua, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài được toàn thể hội nghị tôn cử vào hàng Trưởng Lão Hội Đồng Viện Tăng Thống, và năm này cố Hòa Thượng chỉ đạo cho Thầy Trụ Trì thành lập Phật học viện Phổ Quang. Đến năm 1969 được cải danh là Phật học viện Hải Tràng, với sự hợp thức hóa của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.
Năm 1968, Hội Đồng Viện Tăng Thống cung cử Ngài vào ngôi vị Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.
Trong cuộc đời của cố Hòa Thượng, trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, từ lúc xuất thân ra khỏi nhà thế tục, cho đến khi sứ mạng thiêng liêng sắp hoàn thành, không lúc nào Ngài xao lãng tâm hoài Tịnh Độ, tuy tuổi cao sức yếu nhưng cố Hòa Thượng vẫn hoan hỷ chứng minh các Phật sự và luôn luôn nhắc nhở các hàng đệ tử tinh cần niệm Phật để được giải thoát vì thời gian không chờ đợi ai.
Ngài thường dạy bảo:
Một lòng niệm Phật Di Đà
Tịnh tâm thác hoá liên hoa sẵn dành
Vào đời bỉ thử cạnh tranh
Một câu niệm phật an lành thân tâm.
IV. THỜI KỲ VIÊN TỊCH
Đến năm1972, Đạo hạnh và Đạo nghiệp của Ngài đã được viên mãn. Một hôm cố Hoà Thượng báo cho các đệ tử biết là Ngài sắp trở về… Nhưng thời gian mỗi lúc mỗi thu ngắn dần cho đến tháng 8, trước giờ thâu thần tịch diệt, một sự duyên mầu nhiệm. Vào lúc ấy có hai vị Hòa Thượng Thiện Hòa và Hòa Thượng Thiện Hoa đến, thì cố Hòa Thượng mở mắt nhìn và chấp tay chào rồi từ từ thu thần đăng lâm Phật quốc! Lúc ấy là 16 giờ 30 phút ngày 23 tháng 8 năm Nhâm Tý, tức ngày 30-9-1972, trụ thế 89 tuổi và 60 hạ lạp.
Như vậy, một cuộc đời hành đạo và sự nghiệp giải thoát của cố Hòa Thượng từ khi đến và lúc trở về là một tấm gương đạo hạnh tươi sáng cho mọi người con Phật noi theo.
“Dép cỏ lối về còn hiển hiện
Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương”
Nam Mô Phổ Quang Đường Thượng Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhứt Thế, Húy Võ Công, Thượng Giác Hạ Trang Hiệu Hải Tràng Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh.