Nepal là một trong những nước phong phú và đa dạng sinh thái, do vị trí địa lý đặc biệt của dãy Hi Mã Lạp Sơn. Nepal có 4 di sản văn hóa thế giới được UNESSCO thừa nhận, trong đó 2 di sản thiên nhiên thế giới là Chitwan và công viên quốc gia Sagarmatha. Hai di sản văn hóa thế giới bao gồm Lâm Tỳ Ni, nơi đản sanh của đức Phật và quần thể 7 công trình kiến trúc thuộc thung lũng Kathmandu. Trong số 7 công trình này, có 3 kiến trúc thuộc cung điện lịch sử tại Kathmandu, Patan và quảng trường Bhaktapur Durbar; 2 đền Ấn Độ giáo (Pashupatinath, Changu Narayan) và 2 tháp Phật giáo(Boudhanath và Swayambhunath).
Vào ngày 05/07, phái đoàn chúng tôi đã đến chiêm bái tháp Boudhanath, nằm về phía Tây Kathmandu, là một trong các tháp Phật giáo lớn nhất tại Nepal gắn liền với kiến trúc và mỹ thuật Phật giáo Tây Tạng. Tháp Boudhanath còn gọi là tháp Khasti hoặc Jyarung Khasyor theo cách gọi của người địa phương. Đối với cộng đồng Phật giáo Nepal và Tây Tạng, tháp Boudhanath là thánh tích Phật giáo thiêng liêng thứ hai sau Lâm Tỳ Ni. Cấu trúc của tháp được thiết kế theo đồ hình Mandala vĩ đại. Do yếu tố này, tháp Boudhanath được xem là địa điểm hành trì tâm linh quan trọng của người dân địa phương.
Phần trên của tháp nổi bật lên 4 cặp mắt Phật nhìn về 4 hướng, vốn được xem là biểu tượng của thống nhất và trí tuệ. Xung quanh tháp chính còn có các quần thể tháp đá nhỏ cao trên dưới 1m với các nét điêu khắc rất đặc thù của Phật giáo Nepal theo truyền thống Kim Cang Thừa. Bao bọc xung quanh các quần thể tháp nhỏ là các cửa hàng bán quà lưu niệm bao gồm tượng Phật, pháp khí, Phật cụ, tranh ảnh về Kim Cang thừa và Hy Mã Lạp Sơn, thu hút và giữ chân du khách ở lâu hơn với Tháp.
Bốn mặt trên của tháp có 4 cặp mắt Phật nhìn về 4 hướng. Trung tâm của tháp thờ Phật Vairochana (Tỳ Lô Giá Na, đức Phật chủ), phương Đông tượng trưng cho Phật Akshobhya (biểu tượng của thức uẩn), phương Nam tượng trưng cho Phật Ratna Sambhava (biểu tượng của thọ uẩn), phương Tây tượng trưng cho Phật Amitabha (Phật A Di Đà, biểu tượng của tưởng uẩn) và phương Bắc tượng trưng cho Phật Amoghsiddhi (biểu tượng của hành uẩn). Phối hợp bốn hướng với bốn uẩn đã làm cho ý nghĩa biểu tượng của tháp này trở nên ấn tượng hơn. Vào tháng 10/2010, tháp được trùng tu sau 90 năm và đó là lần thứ 15 sau 1500 năm xây dựng. Vòm tròn trên đỉnh tháp được nạm bằng 20kg vàng, làm cho tháp ngoài nét đẹp trang nghiêm còn tăng sự thu hút du khách đến chiêm bái.
Chiều ngày 05/07, phái đoàn tiếp tục lên đường đến hang động Asura, tọa lạc tại làng Pharping cách Kathmandu hơn 10km. Hang động này nổi tiếng thiêng liêng là nhờ vào sự có mặt của ngài Guru Rimpoche. Tương truyền, vào thế kỷ thứ 7, sau nhiều tháng tu tập thiền định niêm mật, Guru Rimpoche đã giác ngộ chân lý Phật đà. Bước ra khỏi hang động, Guru Rimpoche đã để lại dấu lòng bàn tay ở mặt bên trái hang động để đánh dấu sự kiện giác ngộ của mình. Tại vị trí bàn tay này, người ta cho rằng có một lỗ hang lớn hơn hoảng nửa dặm.
Khi quần chúng địa phương biết đến sự kiện này, hang động Asura trở nên nổi tiếng từ dạo đó. Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, Rimpoche Tulku Urgyen đã có công bảo quản hang động, đồng thời xây dựng tu viện theo truyền thống Kim Cang thừa trên đường lên hang động. Các khóa tu 3 năm thường xuyên được tổ chức cho các hành giả Mật tông thích thực tập chuyên sâu theo phương pháp Chokling Tersar, còn được gọi là Pema Osel Ling, tức chỉ ở trong tháp hoặc quanh tháp. Trong hang động, có tôn thờ 3 hình ảnh, đó là Guru Rimpoche, Yangdak Heruka và Vajrakilaya.
10 năm trở lại đây, du khách quốc tế và địa phương đến thăm viếng hang động nhiều hơn. Các tu viện Phật giáo Tây Tạng lần lượt được dựng lên ngày càng nhiều trong bán kính 10km đối với hang động, đã biến ngôi làng hẻo lánh này thành trung tâm tu học trong vùng phụ cận Kathmandu. Tại đây, TT. Thích Nhật Từ đã chia sẽ bài pháp thoại về cách chuyển hóa thói quen, nhằm giúp các Phật tử khơi dậy niềm tin về năng lực chuyển nghiệp.
***
Sáng ngày 6/7/2013, phái đoàn lên đường đến vùng đông nam Kathmandu, chiêm bái thắng tích Takmo Lujin, thường được người dân địa phương gọi là Mamo Bouddha (kính ngưỡng đức Phật). Cách trung tâm Kathmandu 40km, tương truyền tháp được xây dựng trên xương và tóc của hoàng tử Mahasattva nằm trên triền đồi Gandha Malla. Vào thế kỷ thứ 8, sách sử ghi nhận vùng này trở nên không an toàn bởi sự hiện hữu của cọp dữ. Người dân địa phương không muốn gọi địa danh này bằng tên thực, nơi bị quấy nhiễu bởi hổ, với niềm tin rằng họ nhờ đó được bảo hộ, nên địa danh này được gọi là Namo Bouddha (lạy Phật gia hộ).
Theo kinh Bản Sanh (Jataka), kiếp trước, Bồ tát Mahasattva từng là hóa thân của Phật Thích Ca. Mahasattva là hoàng tử út của vua Maharatha. Một hôm, ba anh em thái tử du ngoạn trong rừng, nhìn thấy hổ mẹ và 5 hổ con vừa được sinh ra, đói khát và không di chuyển được, các Thái tử đã rời khỏi rừng, riêng Mahasattva đã quyết định quay trở lại lóc thịt của mình cho hổ mẹ ăn. Các anh em thái tử trở lại rừng tìm kiếm thì nhìn thấy xương và tóc của Mahasattva, vô cùng thương xót. Cảm kích tâm từ bi và hạnh bố thí ba la mật của Mahasattva, ngôi tháp được dựng lên tại đây để thờ xương và tóc của Mahasattva.
Ngày nay đến nơi này, do thời gian vô thường tàn phá, tháp nguyên thủy không còn nữa. Cộng đồng Phật giáo Tây Tạng dựng lên một đền thờ ngay địa điểm lịch sử khoảng 9 m2, trong đó có bức phù điêu mô tả cảnh Mahasattva róc thịt mình cho mẹ con cọp ăn. Trang thờ rất đơn sơ nhưng lại có sức thu hút du khách đến từ nhiều nơi, lặn lội qua đường hiểm trở là do hạnh bố thí ba la mật đặc biệt của Mahasattva.
Chiều cùng ngày, phái đoàn Việt Nam đã đến quảng trường Patan Durbar là một trong 3 quảng trường Durbar nổi tiếng tại thung lũng Kathmandu. Quảng trường này tọa lạc tại trung tâm của thành phố Lalitpur. Theo các nhà nghiên cứu Nepal, quảng trường Patan vốn là thành phố thịnh vượng từ thời cổ đại. Kiến trúc hiện tại mà ta nhìn thấy với nhiều nét cổ kính là có từ thế kỷ 16, được xây dựng trong triều đại của vua Siddhinarasimha. Patan còn là một trong các thành phố Phật giáo cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay. Dầu là người theo Ấn Độ giáo, vua Malla đã xây dựng quần thể kiến trúc hòa quyện giữa Ấn Giáo và Phật giáo, tạo ra nét đặc thù về hòa hợp giữa hai tôn giáo quan trọng nhất tại Nepal. Quảng trường Patan với 136 sân và 55 đền chùa lớn nhỏ, đã trở thành khu tâm linh của người theo Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Về kiến trúc, quảng trường này mang phong cách Newa. Sân của quảng trường được lót bởi các viên gạch đỏ nguyên thủy. Phần kiến trúc và mỹ thuật chính được chạm trỗ bằng một loại gỗ quý màu đen có thể tồn tại 1000 năm. Đền tháp chùa chính được xây đối diện với mặt tây của cung điện. Từ 1979, quảng trường này được UNESSCO thừa nhận là di sản văn hóa thế giới.
Các đền thờ chính trong quần thể đền thờ Ấn giáo gồm có: đền Krishna (xây 1637), đền Bhimsen (xây 1680), đền Vishwanath (xây 1627), đền Taleju (xây 1667). Tham quan thánh tích này, du khách không khỏi ngạc nhiên, thán phục về công trình đặc sắc hài hòa giữa kiến trúc Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Sau 2 ngày tham quan các thắng cảnh văn hóa nổi tiếng tại Kathmandu và vùng phụ cận, phái đoàn đã đến các khu chợ quà lưu niệm, trải nghiệm về sự phong phú của các pháp khí, Phật cụ mang tính mỹ thuật và đặc thù cao của Nepal. Rời khỏi Nepal với bao nỗi niềm quyến luyến, phái đoàn trở về Việt Nam với nhiều kỷ niệm đẹp và khó quên.