Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ tại Châu Âu, do đường giao thông bị cắt đứt, không thể trở về chính quốc, người Pháp tại Sài Gòn và các tỉnh Miền Nam phải tìm một nơi khác để vui chơi, nghỉ dưỡng . Thế là sau bao nhiêu năm yên nghỉ kể từ khi được bác sỹ Alexandre YerSin phát hiện ( 1893 ) và được toàn quyền Daul Doumer cho thành lập nơi nghỉ mát ( 1900 ) Đàlạt đã được người Pháp tìm đến và họ đã gấp rút cho xây dựng các hạ tầng cơ sở . Vào năm 1915, nhiều lao động bản xứ ở Miền Trung đã tìm đến xin việc và định cư lâu dài trên vùng đất mới ở Cao Nguyên này .
Trong bối cảnh đó, năm 1921, Hòa thượng Thích Nhơn Thứ, người tỉnh Phú Yên , sinh năm Giáp Ngọ ( 1894 ) pháp danh Tâm Trung, pháp tự Nghĩa Đạo thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 43, theo chân đoàn người di dân từ Khánh Hòa vào Đà Lạt lập nghiệp . Lúc bấy giờ, nơi đây chỉ là rừng thiêng thú dữ , quanh năm sương mù rét lạnh, dân cư thưa thớt , sau khi tìm được một khu đất hẻo lánh rộng khoảng 1 ha trên một ngọn đồi chưa có người khai phá, Hòa thượng đã dừng chân và tạo dựng một ngôi thảo am đặt tên hiệu là Linh Quang tự . Ngoài việc tu tập hành trì , hoằng dương chánh pháp, khai nguồn đạo Phật tại đất Lâm Đồng ( lúc này còn mang tên là Đồng Nai Thượng ) . Hòa thượng Nhơn Thứ còn được biết đến như một vị thiền sư võ nghệ cao cường, y thuật uyên thâm chửa được nhiều bệnh nan y cho bà con quần chúng, tiếng lành đồn xa, tín đồ Phật tử vân tập về tu học ngày một đồng .
Đến năm 1933, được sự cúng dường của quí phật tử : Đỗ Sinh, Trần Văn Tài, Trương Văn Nhàn,Nguyễn Văn Nhạn, Lê Văn Cam , Hòa thượng đã cho xây dựng chùa Linh Quang từ ngôi thảo am trở thành ngôi Tam Bảo vách ván ngo, lợp tôn với diện tích bề ngang 7 m, bề dọc 7 m, cao 6m .
Do cảm mến đức độ của Hòa thượng và được biết Linh Quang tự là ngôi chùa đầu tiên tại vùng đất “ Hoàng Triều Cương Thổ” tỉnh Đồng Nai Thượng nên vào ngày 27/9/1938 ( niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ), Đức Đoan Huy Hoàng Thái Hậu và vua Bảo Đại đã ban biển ngạch sắc tứ cho chùa, ghi rõ : “ Sắc tứ Linh Quang tự, Bảo Đại thập tam niên, cửu ngoạt nhị thập thất nhựt, Lễ Công Bộ Đại Thần Tôn Thất Quảng cung khắc”. Vì thế chùa Linh Quang được xem là ngôi chùa đầu tiên và là ngôi tổ đình Của phật giáo tỉnh Lâm Đồng .
Qúa trình truyền thừa
Ngày 13 tháng 3 năm Tân Tỵ ( 1941 ), Hòa thượng Thích Nhơn Thứ viên tịch, thọ 70 tuổi, bảo tháp của Ngài được tôn tạo trong khuôn viên Tổ Đình Sắc Tứ Linh Quang tự . Kế thế trú trì là Hòa thượng Thích Quảng Nhuận , Ngài đã cho sửa sang, trùng tu chùa, tiếp tục sự nghiệp hoằng dương đạo pháp . Vào năm 1951, trong một dịp trở về quê thăm chùa cũ là Tổ Đình Từ Quang Huế, Hòa thượng viên tịch và bảo tháp của Ngài được tôn trí tại đây .
Đời trú trì thứ 3 là Hòa thượng Thích Minh Cảnh ( thế danh Trần Bình An ) sinh năm Bính Ngọ ( 1905 ) trong một gia đình chánh tín Phật giáo tại huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế . Từ nhỏ, Ngài thọ tam qui ngũ giới với Hòa thượng Thích Nhơn Thứ và chính thức xuất gia năm 1938 tại Tổ Đình Linh Quang với Hòa thượng Thích Quảng Nhuận . Năm 1949, Ngài thọ cụ túc giới tại Đại giới đàn hộ quốc chùa Bảo Quốc – Huế và kế thế chính thức trú trì vào năm 1951 cho đến ngày viên tịch 19/2/Bính Dần ( 1986 ) .
Trú trì đời thứ 4 của ngôi Tổ Đình Linh Quang là TT . Thích Thanh Tân, sinh năm Kỷ Sửu ( 1949 ) tại Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam, TT. xuất gia năm 1965 dưới sự tế độ của HT Thích Minh Cảnh, thọ Sa Di năm 1972, thọ Cụ Túc giới năm 1980 tại Đại giới đàn Thiện Hòa tổ chức tại Tổ Đình ấn Quang TP Hồ Chí Minh . Trong công tác giáo hội, Thượng tọa đang giữ chức vụ phó Ban Trị Sự kiêm trưởng Ban Từ Thiện Phật giáo Lâm Đồng, phó Ban thường trực Ban Đại diện Phật Giáo TP Đà Lạt từ khóa 1 đến nay .
Nghệ thuật kiến trúc xây dựng .
Tổ Đình Linh Quang có lối kiến trúc cổ kết hợp giữa nghệ thuật Trung Hoa và Việt Nam, mái kép uốn cong tại bốn góc của nóc chùa được trạm trổ hình Long, Lân, Qui, Phụng cùng các con giao uốn lượn gắn ghép nhiều mảnh sành sứ đủ màu sắc . Tiền diện chùa quay hướng về phía Đông Bắc, chánh điện được xây dựng theo hình chữ đinhdài 20 m, rộng 15 m, gồm 3 gian nhà kết cấu liên thông nhau . Ngôi tiền sảnh có lối kiến trúc 3 gian, hai chái có mái kép , từ phía ngoài nhìn vào, ta thấy trên hai đầu đỉnh nóc có gắn hai con Rồng theo thế hồi Long, cùng chầu vào một mặt hổ phù, phía trên mặt hổ phù là bánh xe chuyển Pháp Luân .
Trên các đầu đao của mái trên là các cặp lưỡng Long, lưỡng Phụng chầu vào , ở hai đầu đao mái dưới là một cặp lưỡng Long vươn ra, khoảng giữa của hai mái là các bức trang trí hồi Long đối xứng qua bảng hiệu bằng chữ Hán “ Linh Quang Tự” , tiền điện chùa có 4 trụ đắp rồng và sát hai trụ cột ngoài cùng là hai mãnh tường hẹp đắp nổi phong cảnh vườn Lộc Uyển .
Trong chánh điện tôn trí thờ tượng Đức Bổn Sư, ngự trên tòa sen, hai bên thờ đức Hộ Pháp và Tiêu Diện, sau chánh điện là hậu tổ, thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma, chư vị Hòa thượng quá cố, hai bên là bàn thờ chư vị nam, nữ quá cố chư Hương Linh .
Sau tổ đường là nhà tăng , tàng kinh các, trong khuôn viên chùa ngoài ba bảo tháp của Hòa thượng khai sơn và hòa thượng thừa kế trụ trì còn có một tượng đài Quán Thế Âm lộ thiên thị hiện trên thân Rồng dài 100 m, đường kính 2 m, bên phải là vườn Lâm Tỳ Ni nơi Đức Phật đản sanh, có tượng voi trắng 6 ngà cao 3m , dài 6 m và tượng hoàng hậu Ma Gia cùng chư thiên, tiên nữ đứng hầu , bên cạnh là tiểu cảnh thái tử Tất Đạt Đa thắng ngựa Kiền Trắc cùng hầu cận Xa Nặc vượt thành xuất gia …
Các công trình này được thực hiện từ năm Canh Thìn ( 2000 ), năm bản lề của thế kỷ XXI, Rồng thiên dài 100 m tượng trưng cho 100 năm Đạo Pháp hưng thịnh, trường tồn cùng Dân Tộc .
Thay lời kết
Tổ Đình Sắc Tứ Linh Quang tự do cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ khai sơn từ năm 1921, tính đến nay đã đã tròn 91 năm, nơi đây được xem là ngôi Tổ Đình đầu tiên của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng, đã trải qua nhiều thế hệ trú trì là những bậc cao tăng đức độ . Cổ tự Linh Quang ngày nay còn được biết đến như là một địa danh tham quan du lịch tâm linh nổi tiếng, luôn hiện diện trong hành trình của những khách hành hương khi đặt chân đến với thành phố Hoa Đà Lạt .
Ngoài ra, Tổ Đình Linh Quang còn là một địa chỉ ấm áp tình người của những mãnh đời bất hạnh, luôn đi đầu trong các công tác từ thiện xã hội theo phương chăm “ Phụng sự Đạo Pháp và Dân Tộc”, tiếp nối hạnh nguyện mà Hòa thượng khai sơn và Chư Tổ tiền bối đã dầy công khai sáng, vun đấp để thế hệ hậu lai duy trì phát huy, Tổ ấn Trùng Quang, ngõ hầu làm lợi lạc cho mọi loài chúng sanh, báo Phật ân đức, kế vãng khai lai, lưu truyền hậu thế .