Trang chủ Tu học Lòng thâu đạo – Vấn đề cúng dàng

Lòng thâu đạo – Vấn đề cúng dàng

 

Bản thân tôi mới chỉ là người sơ cơ tu học đạo nên không thể nói hết được những áo nghĩa trong Kinh điển Phật. Liên quan đến lòng thâu đạo, trong bài viết này, tôi xin trích ra thêm một số điều đức Phật nói trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm để chúng ta hiểu rõ hơn về những điều ngài đã tiên đoán  trước trong thời mạt pháp và phương cách cúng dàng Tam Bảo của các Phật tử hiện nay có phù hợp với tinh thần đức Phật đã thuyết hay không.  
 
Về Lòng thâu đạo, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Thế Tôn nói:   “Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều những hạng yêu mị tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén núp gian dối, tự xưng là thiện trí thức. Mỗi người tự xưng đã được tạo pháp thượng nhân, lừa gạt kẻ không biết. doạ dẫm khiến cho mất lòng chính tín. Chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao tổn tan nát…”
 
Bản chất của đạo Phật là tu Tâm, chuyển hoá tâm để tương ứng với cảnh giới cao trong pháp giới. Vì vậy, tu học phật là học các phương tiện mà đức Phật đã truyền dậy để chuyển hoá tâm mà không nhờ cậy vào các vị thần linh thuộc các cảnh giới khác.
 
Các tăng sĩ Phật giáo hoằng pháp theo tinh thần tuỳ duyên, tuỳ cảnh với lòng từ bi hỷ xả. Không  thúc ép doạ dẫm, bắt buộc.
 
Cách đây 2555 năm đức Phật đã nhìn thấy rõ, trong thời mạt pháp sẽ xuất hiện nhiều nhà truyền đạo tu hành chưa rốt ráo, tự nhận mình là các bậc thánh nhân thu gom tiền bạc, doạ dẫm lừa gạt nhiều người.  Đi đến đâu tiêu hoang nhà cửa đến đó.
 
Chính từ việc tu hành chưa rốt giáo, hiểu chưa thấu được chân lý vũ trụ, chưa biết đến phương tiện giải thoát của sự chấm dứt đau khổ nên các đạo sĩ các tôn giáo xuất hiện trước và sau Phật giáo thường tự tôn xưng là những bậc thánh nhân. Khi có được một số năng lực thần thông làm cho mọi người kính trọng, nể sợ sùng bái sẽ dẫn đến tình trạng tăng trưởng ngã mạn.
 
Sự tăng trưởng ngã mạn là cái nhân của lòng thâu đạo do lòng tham hiện khởi.
 
Hiểu thấu về lòng tham của ngũ dục dẫn đến tình trạng mượn danh Phật pháp, sử dụng Phật pháp làm lợi cho chính mình, đức Phật đã đề ra các giới luật dành cho các vị tu sĩ xuất gia để tránh lòng tham khởi phát gây trở ngại cho tiến trình giải thoát. Đức Phật nói:
 
“Tôi dạy hàng tỳ kheo theo thứ lớp khất thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ đề. Các hàng tỳ kheo không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi. Thị hiện chỉ đi về một phen. Đi rồi không trở lại nữa. Làm sao bọn giặc mượn y phục đạo Phật buôn bán Như Lai, gây các thứ nghiệp mà đầu gọi là Phật pháp.”
 
Một chúng sinh, khi đã nguyện đi vào con đường giải thoát, thì thân người chỉ còn là phương tiện để luyện tâm. Nếu còn muốn hưởng thụ ngũ dục thì không thể thoát khỏi tam giới.
 
Một nhà tu hành không thể vừa thụ hưởng khoái lạc về thân xác, vừa thụ hưởng hương vị của sự giải thoát. Vì vậy đức Phật đã nói rằng, người xuất gia là gửi thân sống tạm bợ trong ba cõi, khất thực, không tự nấu ăn để bỏ lòng tham thành đạo Bồ đề.
 
Cuộc sống của các vị thiền sư theo HT. Tuyên Hoá là : “Năm qua nghèo, còn có đất cắm dùi. Năm nay nghèo cả dùi cũng không!” Đó chính là cuộc sống và tư tưởng tự tại giải thoát của một con người tu đạo. Ngoài một bình bát và ba tấm y, các vị thiền sư không nên tìm cầu chi hết.
 
“Nếu các hàng tỳ Kheo ngoài y bát ra , mảy may không tích trữ xin ăn có dư thì bố thí cho chúng sinh đói. Nơi nhóm hội lớn chắp tay vái chào đại chúng, có người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết định rời bỏ cả thân và tâm. Thân thịt xương mái trở thành sở hữu chung của chúng sinh. Không đem những lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình. Khiến cho kẻ sơ học phải lầm lạc thì Phật ấn chứng cho người ấy thật được tam muội.”
           
Trên tinh thần những điều đức Phật đã nói đối chiều với cuộc sống hiện tại chúng ta thấy phương cách cúng dàng Tam Bảo và các vị tăng sĩ hiện nay của các Phật tử, cư sĩ tại gia đang có vấn đề. Việc cúng dàng tiền bạc cho Tam Bảo không có điều gì. Nhưng việc cúng dàng tiền riêng cho các sư thầy hiện nay là đang đi ngược lại tinh thần mà đức Phật đã nói trong các Kinh điển.
 
Một tình trạng cúng dàng trong các chùa và trong nhiều lễ hội Phật giáo hiện nay là  sau khi cúng tiền cho Tam bảo thì thường có phong bì cúng tiền riêng cho các vị Thầy. Nhiều vị giảng sư sau khi được mời đến giảng pháp, giảng kinh thì thường nhận phong bì tiền mang về. Thực tế, tôi không biết việc các Tăng, ni sư sau khi nhận tiền riêng có đưa vào thùng Tam Bảo chung hay góp sức đưa vào công viêc từ thiện hay không ? Nhưng việc nhận tiền bạc là trái với tinh thần đức Phật đã nói.
 
Trong bản dịch việt ngữ Thanh Liên của Tỳ khưu Dhamminda có đoạn về cuộc đối thoại giữa đức Phật với trưởng làng Maniculaka, đức Phật nói: (Trưởng làng, đối với bất kỳ ai mà vàng, bạc, hay tiền được cho phép thì đối với họ năm loại lạc thú giác quan được cho phép. Đối với bất kỳ ai mà năm loại lạc thú giác quan được cho phép thì ông có thể chắc chắn: “Ông ta không có tính chất của một tu sĩ, ông ta không có tính chất của một trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca”…
 
Trưởng làng, bởi vàng, bạc, và tiền không được cho phép đối với những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca không ưng thuận vàng, bạc, hay tiền. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca không nhận vàng, bạc, hay tiền. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca đã từ bỏ vàng ngọc và không có tiền của.)
 
Tỳ khưu Dhamminda nói : “Đức Phật đã dạy rằng chẳng có cách nào để một Tỳ khưu có thể được lợi lạc sau khi nhận tiền hay mua những đồ vật bằng số tiền đó. Quý vị có biết rằng Đức Phật không cho phép các tu sĩ và sa di nhận tiền bạc? …Chắc chắn là quý vị đã để ý thấy đại đa số các tu sĩ nhận và sử dụng tiền bạc. Đây là một trong những yếu tố sẽ dẫn tới việc Giáo Pháp của Đức Phật biến mất. Quý vị có thể góp phần để duy trì Phật Pháp được tồn tại bằng cách học tập cách cúng dường những vật dụng cần thiết được cho phép.”
 
Vì lòng tham nhiều người yêu quý tiền còn hơn sinh mạng. Có người vì tham tiền mà hy sinh ngay đến sinh mạng mình cũng không tiếc. Điều đó đủ chứng minh ma lực của đồng tiền.  Nhiều người vì tiền mà sinh ra biết bao nhiêu phiền toái. HT. Tuyên Hoá cho rằng: “Người tu đạo nên vì chúng sinh làm phước điền tăng, thay chúng sinh gieo phước, tiếp nhận sự cúng dàng, và không được phan duyên, cũng như không được tham cầu sự cúng dàng. Người tu hành chỉ nên tùy duyên, tùy phương tiện chứ không có ý đồ gì khác. Tại sao người xuất gia không thành đạo? Bởi họ không phá nổi hai cửa tài, sắc. Tài khiến người mê hoặc, sắc làm cho người điên đảo. Hai tảng đá chướng ngại nầy cản trở người tu hành, khiến người ta đắm mê không cách gì tự thoát ra được, thậm chí lại còn trôi nổi hùa theo…
 
Bất luận ai, hễ giữ giới tiền bạc, tự mình nên đặc biệt chú ý và hết sức cẩn thận. Tay không đụng tiền, tâm cũng không nên nghĩ đến tiền. Đừng nên bên ngoài ra vẻ tuân thủ, mà bên trong vẫn ham cầu lợi dưỡng. Nếu ai có tư tưởng và hành vi như thế thì hãy mau sửa đổi, chứ đừng biết rồi mà cứ cố phạm. Những ai dùng phương thức “ngũ tà mạng” (năm nghề bất chính) để sinh sống, đều không thật sự là Phật tử, mà là trùng trong thân sư tử, mặc áo Phật, nương theo Phật để kiếm ăn. Nói tóm lại, hễ người có tâm phan duyên là tham tài, đều không có tư cách làm đệ tử Phật.
 
Tiền là vật ngoài thân, sinh không mang đến, chết không mang đi. Cho nên có tiền, chúng ta nên làm nhiều việc công đức, như in một quyển sách nhỏ để phổ biến tuyên dương Phật Pháp thì công đức vô lượng, so ra còn hơn là dựng chùa xây tháp cho chính mình.”
 
Tình trạng xây chùa to, chùa lớn hiện nay cũng như việc liên tục tổ chức các Pháp hội, siêu độ vong linh, làm lễ quán đảnh, truyền Pháp…đang là một vấn đề cần phải lưu ý. Giáo nghĩa căn bản của đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sinh đều có trí huệ, có Trạch pháp nhãn để biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện.
 
Cho nên việc hoằng dương Phật pháp của các tăng sĩ chính là hướng dẫn chúng sinh làm thế nào để chấm dứt sinh tử, giải thoát đau khổ. "Tạo chùa không bằng tạo người, tạo người không bằng tạo Phật…” đó là câu nói tuyệt với nhất mà HT.Tuyên Hoá thường xuyên nhắc nhở các đệ tử của mình.
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật! Nam Mô Thủ Lăng Nghiêm Kinh Phật !