PTVN – Sáng nay, ngày 19/10 (nhằm 03/9/Canh Tý), tại Tu viện Huệ Quang (116 Hoà Bình, Q.Tân Phú), chư Tôn đức BTS GHPGVN Q.Tân Phú cùng môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức lễ Đại tường cố Trưởng lão HT.Thích Minh Cảnh – Thành viên Hội đồng Chứng minh (HĐCM) TW GHPGVN, Viện chủ Tu viện Huệ Quang.
Lễ tưởng niệm Đại tường Cố Trưởng lão Hòa thượng có sự chứng minh và tham dự của Hoà Trưởng lão HT.Thích Đức Nghiệp – Phó Pháp chủ HĐCM TW GHPGVN; HT.Thích Tịnh Hạnh, HT.Thích Như Tín đồng thành viên HĐCM TW GHPGVN; HT.Thích Thiện Tánh – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Kiểm soát TW GHPGVN, Phó trưởng BTS GHPGVN TP.HCM; HT.Thích Thiện Xuân – Trưởng BTS GHPGVN Q.Tân Phú; cùng chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức Tăng Ni,…
Tại lễ tưởng niệm, TT.Thích Thiện Hoà – Phó Thường trực GHPGVN Q.Tân Phú đã tuyên đọc tiểu sử cố Trưởng lão Hoà thượng.
Theo đó, Trưởng lão Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Trưởng lão Hoà thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp).
Ngài xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.
Vốn sanh trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tin Tam bảo, sâu trồng ruộng phước Tăng già, đặc biệt là có bốn anh chị xuất gia nơi cửa Phật, vì vậy Ngài đã bén duyên với cửa Phật khi tuổi còn rất nhỏ. Năm 1945, Ngài được HT.Huệ Hưng dẫn đến chùa Long An, ở Sa Đéc thọ học với HT.Hành Trụ, và được ban pháp danh Minh Cảnh.
Năm 1947, Hòa thượng thọ giới Sa-di tại chùa Kim Huê (Sa Đéc) với HT.Chánh Quả. Đầu năm 1948, Hòa thượng nhập học tại trường Liên Hải Phật học đường đặt tại chùa Vạn Phước, Bình Trị Đông (nay là quận Tân Bình). Tại ngôi trường Phật học này, Hòa thượng được cố HT.Thích Trí Tịnh chính thức nhận làm đệ tử và học ở đây cho đến năm 1950. Năm 1951, Hòa thượng theo hầu HT.Thích Trí Tịnh tại Sơn Linh cổ tự (Vũng Tàu).
Năm 1953-1954, Hòa thượng tu học tại Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang (quận 10, Sài Gòn). Nơi đây, Hòa thượng được gần gũi và học tập với HT.Thích Nhất Hạnh.
Năm 1954-1959, sau khi khóa học tại Ấn Quang kết thúc, Hòa thượng cùng các huynh đệ đồng môn tiếp tục con đường thế học còn dang dở do thời cuộc. Mùa hè năm 1960, Hòa thượng khăn gói lên tàu ra đất kinh kỳ, ở tại chùa Từ Hiếu để đi học Trường Quốc Học và học chữ Hán với ôn Quy Thiện (ngài Chân Đạo Chánh Thống).
Năm 1960-1961, từ Huế trở về, Hòa thượng tu học tại chùa Tập Thành với thầy Cả, thân mẫu nay đã xuất gia và những anh chị em xuất gia trong gia đình. Năm 1961-1965, Hòa thượng trở lại con đường học thế học tại Trường Chi Lăng, Trường Phan Sào Nam (Sài Gòn). Sau đó, Hòa thượng học tiếp cho đến tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Năm 1965-1968, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Hòa thượng được cử xuống dạy học tại Trường Thoại Ngọc Hầu, ở Long Xuyên. Năm 1968-1975, Hòa thượng dạy học và làm việc tại Đại học Vạn Hạnh (Lê Văn Sỹ, Sài Gòn).
Năm 1969, Hòa thượng thọ giới Tỳ-kheo tại chùa Huệ Nghiêm, do HT.Hải Tràng làm Hòa thượng đàn đầu, HT.Thích Trí Tịnh làm Tuyên luật sư, HT.Hành Trụ làm Yết-ma A-xà-lê, HT.Huệ Hưng làm Giáo thọ A-xà-lê.
Năm 1970, Hòa thượng tu học tại tu viện Huệ Quang cho đến nay. Năm 1971-1974, tuy ở tại tu viện Huệ Quang, nhưng Hòa thượng làm Hiệu trưởng Trường Bồ Đề (Long Khánh). Năm 1980, được sự ủy thác của cố HT.Huệ Hưng, Hòa thượng kế thế trụ trì tu viện Huệ Quang cho đến ngày nay.
Năm 1984-1988 và 2002-2006, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Chánh Đại diện Phật giáo quận Tân Bình, sáng lập Lớp Sơ cấp Phật học quận Tân Bình.
Năm 1984-1991, Hòa thượng làm giáo thọ Trường Cao cấp Phật học khóa I và II. Năm 1991, Hòa thượng khai giảng lớp Hán – Nôm tại Trường Đại học Doanh thương Trí Dũng.
Năm 1992, Hòa thượng đã khai giảng lớp phiên dịch Hán – Nôm Huệ Quang khóa I tại chính ngôi chùa mình đang trụ trì. Ba năm sau, việc giáo dục lại gián đoạn, Hòa thượng cùng các Tăng Ni khóa này đã bắt tay vào phiên dịch bộ Từ điển Phật học Huệ Quang, kéo dài suốt 10 năm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng phiên dịch và cho đăng trên Tuần báo Giác Ngộ bộ truyện Tế Điên hòa thượng với bút hiệu Đồ Khùng. Sau này được in lại thành sách gồm 4 tập.
Đến năm 1999, nhân duyên hội đủ, Hòa thượng tiếp tục khai giảng lớp phiên dịch Hán – Nôm Huệ Quang và duy trì đến nay đã được 15 khóa học.
Năm 2007, Hòa thượng được đề cử làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, thành lập Ban Dịch thuật Hán – Nôm Huệ Quang (năm 2012 đổi thành Trung tâm Dịch thuật Hán – Nôm Huệ Quang), trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đặt tại tu viện Huệ Quang với hơn 20 thành viên hoạt động cho đến hôm nay với nhiều tác phẩm được phiên dịch đã được in như: Phật Tổ đạo ảnh, kinh Xuất diệu, Giác hổ tập, kinh Phật thuyết chúng hứa Ma-ha-đế, kinh Pháp cú thí dụ, kinh Đại thừa lý thú lục Bát-nhã Ba-la-mật, kinh Đại Tát-già-ni-kiền tử sở thuyết, Truyện nhân duyên Phú pháp tạng, Chặng đường tham học, Lời trong cõi mộng, Tham cứu Tịnh độ…, và còn nhiều tác phẩm đang biên tập và đang dịch dang dở. Những thành tựu này đã phần nào đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Tăng tài cũng như hoằng pháp mà Hòa thượng luôn thao thức.
Năm 2012-2017, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Viện trưởng kiêm Giám đốc Trung tâm Dịch thuật Hán – Nôm Huệ Quang trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam.
Năm 2002-2012, được suy tôn Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Bình và sau đó là Cố vấn chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Phú cho đến ngày viên tịch.
Năm 2017, Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Trong những năm sau này, Hòa thượng từng làm Yết-ma các Đại giới đàn tại chùa Phổ Quang (TP.HCM), Đại Tòng Lâm (BR – VT). Đặc biệt là chứng minh nhiều giới đàn do Tăng thân Làng Mai tổ chức tại Pháp, Thái Lan.
Mùa an cư năm Mậu Tuất, bệnh của Hòa thượng trở nặng. Tuy được huynh đệ hết lòng chăm sóc, chạy chữa nhưng Hòa thượng đã thuận lý vô thường thu thần thị tịch. Trước đó, khuya ngày mồng 3-9-Mậu Tuất, Hòa thượng hai lần báo với thị giả: “Tôi sắp ra đi!”. Lúc 13 giờ 35 phút, khi hàng đệ tử quỳ quanh hộ niệm, Hòa thượng chắp tay chào mọi người rồi trút hơi thở cuối cùng, trên môi thoảng một nụ cười hoan hỷ, nhẹ nhàng như đang đi vào giấc ngủ, thượng thọ 82 tuổi, 50 hạ lạp.
Những hoài bão vẫn còn, bao công trình chưa trọn. Trưởng lão Hòa thượng thường tâm sự với học trò: “Tôi tài hèn đức mọn”, hay “Tôi tài cũng không mà đức cũng không, nên mọi thứ tùy duyên, cái gì cũng có nhân quả của nó…”. Cho đến những ngày tứ đại bất an, tay Hòa thượng vẫn chưa buông bản dịch.
Sau lễ Tưởng niệm, chư Tôn đức môn đồ pháp quyến đã thiết lễ trai tăng cúng dường lên chư Tôn đức Tăng Ni.
Trước đó, chiều ngày 18/10 (02/9/Canh Tý) chư Tôn đức phái đoàn Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam do Hoà thượng Viện trưởng Thích Giác Toàn dẫn đầu đã đến dâng hương tưởng niệm cố Trưởng lão Hoà thượng.
Tối cùng ngày, chư Tôn đức môn đồ pháp quyến đã thành kính tổ chức lễ tưởng niệm và tụng kinh Di Giáo hướng về cố Trưởng lão Hoà thượng Ân sư Thích Minh Cảnh cùng hồi hướng đến đồng bào miền Trung đang chịu cảnh khổ do thiên tai.
Hình ảnh nơi thiền thất
cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Minh Cảnh
Ban TT-TT Phật giáo Q.Tân Phú