Có lẽ, không ít người ngày nay đã không còn tin vào nhân quả báo ứng, “thiện ác có báo” nữa. Nhưng, thực tế đã có rất nhiều trường hợp làm việc ác, đặc biệt là phá hủy những nơi linh thiêng như chùa chiền miếu mạo, tượng Phật, kinh Phật… mà bị quả báo ngay lập tức khiến nhiều người tỉnh ngộ, không thể không tin. Dưới đây xin trích dẫn lại ba trường hợp bị báo ứng vì vũ nhục và phá hủy tượng Phật trong lịch sử.
Vũ nhục kim tượng Phật, toàn thân phù thũng
Trong bộ sách kinh điển “Tinh dị ký” của học giả Hầu Bạch nhà Tùy có ghi chép lại trường hợp Tôn Hạo – Hoàng đế nước Ngô vì làm nhục tượng Phật bằng vàng mà chịu báo ứng như sau:
Vào thời Tam Quốc khi Tôn Hạo (242-284) nắm quyền tại vương triều nước Ngô, ông ta đã tìm thấy một bức tượng Phật bằng vàng (kim tượng Phật) cao vài thước trong hoa viên ở hậu cung.
Sau khi tìm hiểu, Tôn Hạo biết bức kim tượng Phật này có nguồn gốc từ Ấn Độ. Pho tượng được vua Ấn Độ Ashoka (A Dục Vương) làm ra và được đặt trong cung điện để bảo an. Nhưng, Phật Giáo đã không được truyền đến miền Nam từ sau vương triều nhà Tần và Hán, vì thế làm sao bức tượng này lại được chôn dưới đất như vậy thì không ai có thể giải thích được.
Bởi vì Tôn Hạo vốn không tin Phật, hơn nữa còn có thái độ tàn bạo, bất kính với Phật nên ông ta đã sai người đem tượng Phật đặt ở nơi dơ bẩn rồi cho người đổ phân vào kim tượng Phật. Ông ta cùng với các quần thần của mình rất thích thú khi chứng kiến cảnh tượng ấy.
Tuy nhiên, vui không được bao lâu thì toàn thân Tôn Hạo bị sưng phù thũng và đặc biệt bị đau đớn ở phần kín đáo của mình. Quá đau đớn đến mức ông ta thường kêu than thống thiết, “kinh thiên động địa”.
Thái Sử (một vị tiểu tướng trong triều) đã bói toán và nói rằng: “Đó là do xúc phạm đến đại Thần Tiên.” Vì thế Tôn Hạo đã hạ lệnh cúng tế đến tất cả các tượng Phật ở tất cả các chùa, nhưng không có chuyển biến gì.
Về sau, một cung nữ vốn là người tin vào Phật Pháp, nói với Tôn Hạo: “Bệ hạ! Ngài có nguyện ý đến chùa cầu phúc không?”
Tôn Hạo hỏi: “Phật là một vị Thần phải không?”
Cung nữ trả lời: “Vâng, đúng như vậy.”
Tôn Hạo nghe xong có phần tỉnh ngộ, dường như ông ta đã nhận ra việc vũ nhục kim tượng Phật là việc sai trái nên kể lại sự tình ấy với cung nữ này. Cung nữ lập tức mang kim tượng Phật vào đại điện và lau rửa nhiều lần với nước trong sạch. Sau đó, cô đốt hương và khấn nguyện sám hối. Tôn Hạo cũng quỳ thú tội và thỉnh cầu lòng tha thứ. Ngay sau đó thì vị Hoàng đế này đã không còn cảm thấy đau đớn toàn thân như trước nữa.
Về sau, Tôn Hạo còn sai người đến miếu tự thỉnh mời vị hòa thượng Khang Tăng Hội đến giảng giải Phật Pháp. Vị hòa thượng đã giảng giải chi tiết tỉ mỉ Phật Pháp cho Tôn Hạo nghe. Đồng thời ông còn giảng chi tiết về luật nhân quả báo ứng, Tôn Hạo hiểu ra và đã rất hối tiếc về những gì mình đã làm lúc trước. Tôn Hạo còn cho tu sửa chùa chiền và làm nhiều việc công đức. Hơn 10 ngày sau, Tôn Hạo đã hoàn toàn bình phục. Ông ngay lập tức đi đến ngôi chùa nơi hòa thượng Khang Tăng Hội trú ngụ, đồng thời ra lệnh trang hoàng ngôi chùa này. Tôn Hạo sau đó còn hạ lệnh tất cả mọi người trong cung đều thờ phụng Phật Pháp.
Phá hủy tượng Phật bị chết đau đớn
Trong cuốn “Di kiên tam chí” triều Tống có ghi chép một trường hợp phá hủy tượng Phật mà chết như sau:
Vào những năm Chính Hòa thời Bắc Tống (1111-1118 SCN), Hoàng đế bấy giờ là Tống Huy Tông tôn sùng Đạo giáo và chèn ép Phật giáo. Bởi vậy Phổ Chiếu Tự, một ngôi chùa Phật giáo nổi tiếng trong thành Tứ Châu bị người ta chiếm cứ. Phổ Chiếu Tự có một bức tượng Phật rất lớn, không chỉ hoa lệ hùng vĩ mà còn vô cùng trang nghiêm tôn quý. Những người chiếm cứ ấy muốn hủy bức tượng Phật này, nhưng lại sợ sự uy nghiêm của Thần Phật. Vì vậy, họ đã đưa ra một cái giá rất cao để tìm người dám cả gan đến hủy bức tượng Phật ấy.
Bấy giờ có một người họ Triệu vì thèm muốn số tiền thưởng lớn nên đã tới nhận lời làm việc này. Ông ta cũng kiếm thêm mấy người cùng mình cầm búa tới Phổ Chiếu Tự phá tượng.
Họ Triệu dẫn đầu đám người cầm búa tới đập bức tượng Phật liên tục không ngừng nghỉ. Cuối cùng bức tượng Phật ấy đã bị họ phá hủy hoàn toàn. Dân chúng đứng xem than thở không thôi, có người còn rơi nước mắt khi chứng kiến cảnh ấy.
Cầm tiền thưởng chưa đầy mười ngày, hai tay của người họ Triệu bắt đầu bị thối rữa, không thuốc nào trị được. Hơn nữa phạm vi thối rữa càng ngày càng lớn, dần dần lan lên cả hai cánh tay, bả vai cho tới toàn thân trên dưới, khắp mình lở loét, đau đớn như nghìn vạn thanh đao cứa vào. Người đàn ông họ Triệu ấy kêu khóc cả ngày, từ lúc bắt đầu thối rữa cho tới lúc chết, khổ sở đủ một trăm ngày. Tất cả mọi người biết sự việc ấy đều thấy rùng mình kinh hãi.
Cổ nhân tin vào nhân quả, thường nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Trong lịch sử tuy không ghi lại kết cục của những người cùng tham gia hủy hoại bức tượng Phật này, nhưng có lẽ họ cũng khó thoát khỏi ác báo như người đàn ông họ Triệu kia. Ngay cả Hoàng đế Tống Huy Tông vốn hạ lệnh chèn ép Phật giáo cuối cùng cũng bị nước Kim bắt làm tù binh, chịu đủ nỗi khuất nhục, chết trong thê thảm. Điều này cũng cho thấy rằng, “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” là không thiên vị một ai.
Hình phạt Đường Tăng phải chịu trong “Tây Du Ký”
Trong hồi thứ 100 “Kính hồi Đông Thổ, Ngũ thánh thành chân” của thiên truyện Tây Du Ký có đoạn viết về bốn thầy trò Đường Tăng được Phật Như Lai thụ chức. Lúc ấy, Phật Như Lai nói: “Thánh tăng, kiếp trước con vốn là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi là Kim Thiền Tử. Bởi vì con không nghe giảng Pháp, khinh mạn lời dạy của ta, cho nên bị đọa chuyển sinh đến nơi Đông Thổ này”.
Phật Như Lai không vì Kim Thiền Tử là đồ đệ thứ hai của mình mà thiên vị bỏ qua cho tội không nghe giảng Pháp và khinh thường Phật Pháp được. Không những không bỏ qua mà còn phải đánh hạ Kim Thiền Tử xuống trần gian.
Trước Phật Pháp, mỗi người đều là bình đẳng, ai không kính trọng Phật Pháp thì sẽ đều có kết quả như nhau. Kim Thiền Tử vừa bị đọa đến làm người thường ở nơi Đông Thổ Đại Đường thì liền bắt đầu trải qua rất nhiều kiếp nạn.
Khi ông vừa mới ra đời thì đã bị truy sát. Đến lúc đầy tháng, mẹ ông đã phải thả ông lên bè trôi sông, suýt chút nữa thì bị chết đuối. Lớn lên, ông đi tìm họ hàng báo oan thì cũng không hề dễ dàng gì. Sau này, trên con đường tu luyện, đi Tây Trúc thỉnh kinh lại phải trải qua muôn ngàn sóng gió, hết khổ nạn này đến khổ nạn khác.
Mỗi lần gặp khó nạn chỉ cần trong tâm ông thoáng có ý nghĩ không ngay chính, tâm cầu Pháp có một chút hơi thiếu kiên định thì tất cả đều trở thành phí công vô ích, thậm chí còn có thể bị nguy hiểm đến tính mạng.
Bốn thầy trò Đường Tăng kiên định tâm cầu Phật Pháp, bất kể phía trước có khó khăn kiếp nạn gì đều không thể nào ngăn cản nổi bốn người họ tiến bước về Linh Sơn cõi Phật. Trải qua 81 nạn, họ mới trở về lại được thế giới Phật. Từ câu chuyện của Đường Tăng có thể thấy được rằng, muốn tiêu trừ nghiệp ác gây ra do tội coi thường Phật Pháp là vô cùng gian khổ.
Người xưa luôn tin vào sự tồn tại của Thần linh. Họ luôn tin rằng, trên đầu ba thước có Thần linh, vì vậy họ luôn tôn kính Thần linh, luôn không dám làm việc xấu xa hại người vì sợ phải chịu tội. Cũng vì tin vào Thần linh, tin vào nhân quả nên họ luôn dạy bảo con cháu sống phải hành thiện, tích đức, tránh làm việc ác. Có lẽ, những lời dạy ấy vẫn còn vô cùng hữu ích cho con người hiện đại ngày nay.