Trang chủ PGVN Lịch sử PGVN Hoạt động HP của Thiền phái Trúc Lâm (phần 1)

Hoạt động HP của Thiền phái Trúc Lâm (phần 1)

217

Không phải ngẫu nhiên, những trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm ra đời truyền bá Chánh pháp mang đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, là nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo Nhất tông trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã có trước đó, đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, cũng là mô hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên cho các tổ chức Giáo hội sau này.

Bài viết tập trung viết về những hoạt động hoằng pháp độ sinh Thiền phái Trúc Lâm trong tiến trình hình hình thành và phát triển Phật giáo Đại Việt, góp phần định hướng cho công tác hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam trong thời hội nhập.

1. Xây dựng những Trung tâm hoằng pháp Giáo hội

Căn cứ vào tài liệu Tam Tổ thực lục, Tam Tổ hành trạng, Thiền Tông bản hạnh, Thánh đăng lục, chúng ta thấy tiến trình hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm có một bề dày lịch sử trong lịch sử Phật giáo Đại Việt. Trong bối cảnh lịch sử truyền thừa của Thiền phái, Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Thánh Tông được khẳng định là những gương mặt thiền gia đắc pháp tiên phong đặt nền móng tư tưởng và kết nối cho Thiền phái Trúc Lâm ra đời. Trần Nhân Tông là người có công làm cho Thiền phái Trúc Lâm đi vào hiện thực đời sống sinh họat Phật giáo thiền từ mô hình hoạt động, cơ cấu tổ chức cho đến nội dung tu tập và phương thức hành trì được cụ thể hóa. Ông trở thành vị Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm, sau đó đại sư Pháp Loa được Trần Nhân Tông truyền y bát làm Tổ thứ hai. Và người thứ ba được truyền trao làm Tổ thứ ba chính là tôn giả Huyền Quang. Cả ba vị này được tôn vinh là Trúc Lâm Tam Tổ.

Điều đáng nói là cả ba vị Tổ đều lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm truyền bá Phật pháp của dòng thiền Trúc Lâm vào đời Trần. Cũng từ ngôi chùa này, nơi phát xuất đích thực dòng thiền Trúc Lâm, mà sau đời Trần dòng thiền này theo dòng chảy của lịch sử của Phật giáo Việt Nam, chùa Vĩnh Nghiêm tại TP. Hồ Chí Minh được thành lập vào năm 1964, sau đó là một loạt chùa thuộc hệ thống chùa Vĩnh Nghiêm đất Bắc tại miền Nam ra đời; tiếp đến là sau sự kiện thống nhất đất nước vào 1975, Hòa thượng Thích Thanh Từ đứng ra kiến thiết một số chùa ở miền Nam để góp phần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm trong thời hiện đại.

Theo Hòa thượng Thích Thanh Kiểm thì “chùa Vĩnh Nghiêm được kiến lập vào đời vua Lý Thái Tổ (1010 – 1028), kiến trúc thuần túy Á đông và được trùng tu nhiều lần. Cảnh trí tôn nghiêm, tráng lệ tráng lệ hiện nay là do vào năm Thành Thái nguyên niên (1889), Hòa thượng Thanh Hanh đứng ra đảm trách trùng tu”. Chùa Vĩnh Nghiêm còn gọi là Đức La, thuộc làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, tọa lạc trên quả đồi thấp ven bờ sông Thương. Từ chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục đầu Đầu Giang – Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử; bên kia sông là khu đền Kiếp Bạc là đền thờ Hưng Đạo Đại Vương. Rõ ràng, về mặt địa lý, lịch sử chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang có mối liên hệ chặt chẽ với quần thể chùa Yên Tử, cũng như trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông khi nhà Trần nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của ngôi chùa trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Trong vai trò là vị vua lãnh đạo quốc gia, đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi đất nước, sau khi “nhường ngôi cho lại Anh Tông không bao lâu, khoảng tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7, 1299, Điều Ngự đã vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh đầu đà, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà…”. Từ đây, vua mới hội đủ nhân duyên thực hiện cuộc hành trình tâm linh “xuất gia tu đạo, hành đạo”, khát khao thực hiện chí nguyện lập Thiền phái Trúc Lâm, trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã hiện hữu mà trước đó ông nội của mình là vua Trần Thái Tông đã đặt nền tảng, nhằm đáp ứng các nhu cầu lịch sử đặt ra bấy giờ.

Tam Tổ thực lục còn ghi rằng Trần Nhân Tông ra đời như là một vị Phật gắn liền huyền sử, vừa sinh ra màu da như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai phải vua có nốt ruồi đen như hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói đứa bé này ngày sau có thể gánh vác việc lớn . Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận tương tự. Các dữ kiện đó nhằm chứng minh Trần Nhân Tông là một vị Phật Đại Việt. Từ khi xuất gia đến lúc ngộ đạo, hoằng hóa độ sanh, ông chẳng khác gì Phật Thích Ca. Trần Nhân Tông giã từ hoàng cung vào núi Yên Tử, tắm gội ở Ngự Dội lên ngồi dưới gốc tùng tư duy thiền định, bừng sáng trí tuệ. Sau đó, Nhân Tông đã cùng hai môn đệ là Pháp Loa và Huyền Quang đi thuyết pháp ở chùa Sùng Nghiêm, Siêu Loại. Sau khi viên tịch, xá lợi của ông thờ ở tháp Huệ Quang, được tổ chức bằng một nghi lễ trang trọng với số lượng tín đồ rất đông, vừa đi vừa đọc kinh thể hiện niềm tin của Phật tử đối với vị giáo chủ. Rõ ràng, Phật tử nước ta thời đó đã tôn xưng Trần Nhân Tông là Phật Biến Chiếu Tôn. Nhưng điều đáng nói Sơ Tổ là “hiện thân của Phật Đại Việt với nhiều đường nét riêng biệt, phong cách riêng biệt, khác với tông phái Thiền tông khác. Nó không phải là chi nhánh Phật giáo từ bên ngoài vào, nó bắt nguồn tại chỗ, tức từ một vị Phật đầu thai, thuyết pháp, giáo hóa cứu vớt chúng sinh”.

Trong vai trò là vị lãnh đạo tối cao dòng thiền Trúc Lâm, Phật hoàng Trần Nhân Tông với quan điểm Phật tại tâm, do đó ai cũng có thể thành Phật ngay giữa cõi đời. Một chủ trương như thế, bất cứ ai cũng trở thành thành viên của Thiền phái để chuyển hóa thân tâm và đóng góp tích cực cho đời. Đoàn Thị Thu Vân trong bài Tuệ Trung Thượng sĩ và Thiền phong đời Trần cho rằng tinh thần này thể hiện ở bài kệ kết thúc bài Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”(Cư trần vui đạo hãy tùy duyên, Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền. Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm, Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.) . Đây cũng là tôn chỉ của Sơ Tổ và là tư tưởng nhất quán của Thiền phái được thể hiện qua bốn điểm: 1. Hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp. 2. Hành động tùy duyên, tức là làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên. 3. Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực. 4. Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù Thiền hay Phật. Để được như vậy, các nhà tư tưởng Thiền phái đã có quá trình hoạt động và đúc kết từ thực tiễn trong tiến trình hình thành tư tưởng Cư trần lạc đạo đi từ tùy tục của Thường Chiếu, rồi đến biện tâm của Trần Thái Tông chuyển qua hòa quang đồng trần của Thượng sĩ sau cùng là tùy duyên lạc đạo của Trần Nhân Tông.

Để đưa dòng thiền này đi vào đời sống hiện thực của xã hội, Phật hoàng Trần Nhân Tông đi khắp nơi thuyết pháp và tiến đến thành lập những trung tâm hoằng pháp. Chùa Vĩnh Nghiêm nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm hoằng pháp, đạo tràng an cư kiết hạ, đào tạo Tăng tài, thuyết giảng giáo lý cho Tăng Ni mà Tam Tổ Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang xây dựng dưới sự bảo trợ triều đình và quần chúng nhân dân Phật tử ủng hộ cúng dường. Việc tổ chức an cư kiết hạ được Tam Tổ xem là một trong những Phật sự hàng đầu của một tổ Giáo hội Tăng già trong sự nghiệp truyền đăng tục diệm, phát triển đạo pháp. Trên hết, Phật sự này còn góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước sau ba cuộc chiến tranh vệ quốc, đánh đuổi quân Nguyên – Mông ra khỏi đất nước, tiến đến xây dựng Quốc gia Đại Việt trở thành Phật quốc ngay giữa cuộc đời trong tinh thần “Ở đời tùy duyên mà vui với đạo” mà Sơ Tổ Trúc Lâm từng tuyên thuyết.

Về mặt tổ chức, Thiền phái Trúc Lâm có kế hoạch triển khai cụ thể chương trình nội dung an cư theo sự hướng dẫn, phân định theo thông bạch Giáo hội Trung ương (lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm) trước thời điểm kiết hạ vài tháng. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, vào đời Trần thì các Tu viện, đại danh lam như Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Siêu Loại, Vĩnh Phúc, Báo Ân, An Lạc Tàng viện… là những cơ sở được Thiền phái chọn làm đạo tràng an cư kiết hạ trọng điểm có sự bảo trợ bảo trợ của triều đình, ưu tiên cho những ai là tăng sĩ ưu tú thuộc Giáo hội Trúc Lâm. Có thể nói Vĩnh Nghiêm là một trong những đạo tràng an cư kiết hạ thuộc cấp Trung ương Giáo hội, mang tính kiểu mẫu thời đó. Tam Tổ thực lục ghi “Ngày mồng một tháng giêng, năm Mậu Thân (1308), Điều Ngự sai Pháp Loa nhận chức trụ tì để nối dòng pháp tại chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại. Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, giảng Truyền Truyền đăng lục, lại sai Pháp Loa giữ chức trú trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp cho đại chúng”. Rõ ràng, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi lưu dấu 3 vị Tổ Trúc Lâm trong cương vị Trú Trì và làm Hóa chủ đạo tràng an cư kiết hạ hằng năm được sự bảo trợ của triều đình. Theo Sử sách ghi lại thì Vĩnh Nghiêm là nơi có số lượng Tăng Ni tham gia an cư kiết hạ rất đông và quần chúng Phật tử đến nghe pháp đại thừa khá lớn. Vì thế chùa được xây dựng trong khuôn viên đất lớn, quy hoạch kiến trúc phải đảm sự sinh hoạt cho tứ chúng.

Chùa được kiến thiết theo trục hướng Đông Nam, gồm bốn khối: Chùa Phật có tòa nhà tiền đường tức chùa Hộ, Thiêu Hương và Thượng điện, hình chữ “Công”; nhà Tổ đệ nhất cũng hình chữ “Công”; gác chuông hai tầng tám mái; nhà Tổ đệ nhị và nhà Trai kiểu chuôi vồ. Lấy mặt bằng sân làm gốc, ba khối kiến trúc sau đều có nền cao 30 cm, nền chùa Phật cao gấp đôi, ở nhà tiền đường và các nếp sau còn cao hơn nữa. Hai bên còn có nhà Tả vu, Hữu vu, mỗi dãy 18 gian rộng rãi, là nơi hàng năm chư Tăng các nơi về kiết hạ. Ngoài ra còn có các công trình khác nữa để phục vụ cho việc sinh hoạt Phật sự khác dành cho quần chúng Phật tử đến đây tu học hằng ngày và các lễ lớn. Nếu vào thời điểm nhà Lý, chùa Vĩnh Nghiêm ít người ta biết thì đến thời Trần, kể từ khi Trần Nhân Tông chính thức khai sáng ra thiền phái Trúc Lâm và chủ trương đưa đạo Phật vào đời, thì tại ngôi chùa Vĩnh Nghiêm này với chức năng là một trung tâm hoằng pháp của Thiền phái thì tầm ảnh hưởng của nó không chỉ ở trong giới thiền môn mà còn có tác động, ảnh hưởng rộng trên nhiều giới, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đúng như văn bia dựng trước chùa Vĩnh Nghiêm vào năm 1934 ghi: “Đức Tổ Điều Ngự Phật hoàng Trần Nhân Tông khai mở Tùng lâm Vĩnh Nghiêm thì kéo theo mở cả chợ chùa. Các vị vương thân quốc thích và khắp thập phương đã phát tâm tậu nhiều ruộng cúng cho chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở các hạt khác nữa”.

Cùng với Vĩnh Nghiêm, Giáo hội cũng kêu gọi sự hỷ cúng, đóng góp của Triều đình và hoàng thân quốc thích để xây dựng các đạo tràng tu tập có quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu tu học cho tăng Ni Phật tử. Tại Tu viện Quỳnh Lâm, một trong những đạo tràng an cư kiết hạ có số lượng an cư rất đông, được Nhà nước cấp đất để cày ruộng, có tới 1000 mẫu, lại được Nhà nước chỉ định 1000 canh phu tới cày ruộng. Ngoài ra, ta còn thấy đạo tràng chùa Báo Ân được vua Trần Anh Tông hỷ cúng 100 mẫu ruộng riêng từ gia đình họ Trần vào năm 1308, sau đó vua còn hỷ cúng 500 mẫu ruộng lấy từ Niệm Như Trang để cúng vào chùa Báo Ân vào năm 1312 khi số hành giả tu tập tăng lên so với các năm trước. Cũng vào năm 1313, Bảo Từ Hoàng Thái hậu cúng vào chùa Siêu Loại 300 mẫu gia điền. Năm 1315, vua Trần Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng cúng chùa Siêu Loại. Năm 1317, Tư Đồ Văn Huệ Vương cúng dường 4000 lưng tiền vào chùa…Sự cúng dường ưu ái của giới lãnh đạo triều đình như thế đối với công tác an cư mà Giáo hội chủ trì, cũng như cung cấp “nô bộc Tam Bảo” để phục vụ chứng tỏ có mối liên hệ khắng khít giữa Nhà nước và Giáo hội để cùng nhau chung lo cho Phật sự trọng đại này, đảm bảo cho trên 30 ngàn hành giả an cư tập trung thuộc 800 ngôi tự viện mà Giáo hội Trúc Lâm quản lý mà sách Tam Tổ thực lục đã chép.

Về chương trình tu học, Thiền phái (Giáo hội) Trúc Lâm chủ trương Thiền – Giáo song hành, pháp học song hành với pháp tu trong thời gian an cư kể từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy hằng năm theo một quy cũ thiền môn, đậm nét thiền tông Phật giáo Đại Việt. Ba vị Tổ Trúc Lâm và các vị Giáo thọ cao cấp của Thiền phái đã nỗ lực biên soạn Giáo trình Phật học để giảng dạy cho các hành giả an cư tu tập với một nội dung đào tạo thực thi con đường Giới định Tuệ mà Thế Tôn và các bậc Thánh đã đi qua. Với ý nghĩa quan trọng của việc tu trì giới luật, chính Pháp Loa, sau khi được Điều Ngự Trần Nhân Tông thu nhận làm đệ tử và giáo trách nhiệm làm người lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm, phụng chiếu trở về Vĩnh Nghiêm làm trú trì và hóa chủ tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm. Sau một thời gian, nhị Tổ đã từng hiệu đính bộ Tứ Phần luật, khắc in 5000 bản lần đầu tiên vào năm 1322, tổ chức khóa học Luật Tứ Phần cho các hành giả tu trì. Điều đáng nói là Tổ đã mời các vị cao tăng như Quốc sư Tông Kính và Quốc sư Bảo Phác đến các đạo tràng giảng giới luật. Sách Tam Tổ thực lục ghi: “Tư Đồ Văn Huệ Vương mời sư về dinh thự An Long giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, nhân tiện, Sư xem lại bản Tứ Phần Luật San Bổ Sao, in để ấn tống hơn 5000 quyển. Sư nhờ Quốc tông Kính ở Du Tiên, Quốc sư Bảo Phác ở núi Vũ Ninh đến chùa Siêu Loại giảng bộ Luật này”.

Nếu Điều Ngự Trúc Lâm là một nhà khai sáng, một nhà thao lược, chiến lược trong việc thiết kế đường lối chủ trương, hoạt động của Thiền phái; Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, thực thi xây dựng hệ thống tổ chức điều hành Giáo hội Trúc Lâm, thì phải nói Huyền Quang, vị Tổ thứ ba, là truyền giáo giỏi thơ văn, biên sọạn khá nhiều kinh điển có giá trị cho Phật giáo thời đó. Điểm đáng nói là Tam Tổ thực lục nói rằng, đệ tam Tổ Huyền Quang vốn xuất thân là một trạng nguyên Lý Đạo Tái, sau khi xuất gia, đọc nhiều học rộng tinh thông Phật pháp, Tăng Ni theo học kể đến lên con số hàng nghìn người. Từ ấy Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang đã thay nhau đi thuyết pháp các đạo tràng danh tiếng như Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh Lâm…và các nơi khác trong nước. Tổ Trúc Lâm từng lệnh cho Huyền Quang biên soạn Chư phẩm kinh và Công văn tập… và ngự bút phê vào Thích Khoa giáo “Phàm sách gì đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa. Rồi sai thợ đem in để truyền cho đời và ban thưởng vàng bạc vô số”.

Các giáo trình như Chư phẩm kinh, Thích Khoa giáo, Pháp Hoa kinh khoa sớ, Bát Nhã Tâm kinh khoa sớ, Kim Cương Trường đà la ni khoa sớ…với một nội dung và số tiết thích hợp trong thời gian ba tháng, thay vì có kinh phải giảng dạy cả năm vẫn chưa hết được Tam Tổ biên soạn phục vụ cho việc giảng dạy các trường hạ. Đây chỉ là những sách giáo trình mang tính giáo khoa được Tam Tổ biên soạn ngắn gọn, súc tích, rút đại ý và bình giải về các kinh quan trọng mà Thiền phái Trúc Lâm lấy đó làm tông chỉ và cơ sở lập thuyết tu hành và chứng ngộ. Khoa là phân ra các đoạn và rút ra những điểm cốt lõi sau đó nói đại ý; còn sớ là chú thích về nghĩa lý các đoạn kinh. Các sách khoa sớ vì vậy được các hành giả lãnh hội nghĩa lý kinh điển rốt ráo từ các vị giáo thọ.

Từ các giáo trình mà Giáo hội Trung ương biên soạn và phổ biến chung cho các đạo tràng khắp cả nước, nhờ vậy mà các hành giả an cư, Phật tử có điều kiện nghiên cứu, học tập các bộ kinh quan yếu của hệ thống kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bát Nhã. Nhờ sự nỗ lực giảng dạy của chư Tôn giáo thọ có uy tín nhất trong giới thiền môn, mà các hành giả mới có điều kiện để y cứ vào đó thực thi Thiền – Giáo giáo song hành mà chứng ngộ; có nhân duyên thể nhập học thuyết Cư trần lạc đạo mà Sơ Tổ Trúc Lâm chủ trương, để phục vụ cho những đường lối hoạt động của Giáo hội Trúc Lâm, góp phần xây dựng cho đất nước phồn vinh, đạo pháp trường tồn. Theo sách Tam Tổ thực lục thì Pháp Loa là vị Sư thường xuyên đảm nhận giảng dạy yếu chỉ các bộ kinh này trong các đạo tràng Vĩnh Nghiêm, Tư Phúc, Báo Ân, Quỳnh Lâm, Thiên Quang: “…Năm 1322, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử và Thầy chủ sự Huyền Quang gởi thư mời Sư về chùa Báo Ân ở Siêu Loại, giảng hội thứ nhì trong kinh Hoa Nghiêm…Từ đó, trở đi, suốt chín hội, thính giả cả nghìn người, khi ít cũng hơn năm, sáu trăm người”.

Về phương diện pháp hành, Giáo hội Trúc Lâm chủ trương hành trình Giới định tuệ để thăng chứng giác ngộ. Điểm nổi Phật của Phật giáo Trúc Lâm là “Phật tại tâm”, bất cứ ai chỉ cần lòng lặng mà biết cũng thể trở thành thành viên của Phật giáo, trở thành vị Phật ở đời, để đi vào đời độ đời, đúng như lời sư Trúc Lâm từng khuyến cáo vua Trần Thái Tông:“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Lòng lặng mà biết, đó chính là chân Phật”. Thế nên, các hành giả, người học Phật cần hành trì giới, nhờ giới thanh tịnh mà tâm không loạn, tâm an tịnh mới an trú trong định…, đúng như Tổ Pháp Loa dạy trong Khuyến chúng Thượng thừa Tam học: “Sau khi thấy tánh phải giữ gìn giới cho thanh tịnh? Nghĩa là trong 12 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm không loạn động nên cảnh đến an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của cảnh mà chui vào. Ra vào không giao thiệp nên gọi là ngăn chặn. Tuy ngăn chặn mà không phải ngăn chặn. Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy. Đó gọi là giới đại thừa, là giới vô thượng, cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới này, tiểu tăng cho đến bậc đại tăng đều phải gìn giữ”. Rõ ràng, sự giữ giới này bắt nguồn từ sự gìn giữ 6 căn thanh tịnh, không để 6 trần nhiễm hại. Có thể xem đây là chủ trương gìn giữ giới luật của Thiền tông, là nét đặc thù quan trọng trong hệ thống Luật tông mà các thiền sư thực thi hành trì.

Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì, Tam Tổ thực lục, ghi rằng các tu viện thời này, thường áp dụng nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi của nhà vua – thiền gia Trần Thái Tông – người đặt nền móng tư tưởng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời, biên soạn. Đây là phương thức hành thiền phù hợp với tâm thức người Việt, bằng cách sám hối, tẩy rửa 6 căn đối với 6 trần, ứng với 6 thời bái sám trong ngày, không cho bụi bặm khách trần đeo bám, từ đó bước vào thế giới hành trì thiền định. Sự bái sám này không chỉ thực hiện trong ba tháng an cư mà còn hành trì quanh năm suốt tháng. Mục đích là đưa hành giả trở về chân tâm thanh tịnh. Cũng theo sách này, Pháp Loa và Huyền Quang vẫn chủ trương cho các hành giả hành Mật giáo, Tịnh độ theo phong thái Thiền; nghĩa là trì tụng thần chú để gia trì định lực; niệm Phật là để đi đến nhất tâm bất loạn.

Tuy nhiên, việc thực tập thiền định không phải là dễ dàng thực hiện. Các thiền sư cũng tùy theo căn cơ trình độ của mỗi thiền sinh trong các đạo tràng an cư mà tổ chức các thời khóa thực tập thiền. Các vị hành giả được sự hướng dẫn lý thuyết về phương thức hành thiền cụ thể, sau đó là thực tập thiền định. Đối với những Tịnh nghiệp đạo tràng lớn, Trung tâm an cư kiết hạ có số lượng hành giả quá đông như đại bản sơn Yên Tử, Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm…., vị thiền sư không đủ thời gian trả lời. Do đó, vị thiền chủ sẽ tổ chức các buổi đại tham để mọi hành giả có cơ hội tham cứu, thoại đầu xoay xung quanh các đề tài Phật pháp, sinh tử, bản thể, vô thường…Thường các hành giả có căn cơ đại trí mới dám đặt câu hỏi, vì thiền sư thường hay lật ngược các câu hỏi của thiền sinh; hay dùng lối nói nghịch ngữ, phi logic; hoặc dùng phương thức hỏi một đường đáp một ngã nhằm khai mở tâm thức người học cho đến khi nào ngộ được yếu chỉ thiền thì thôi. Sách Tam Tổ thực lục cũng ghi lại những cuộc đại tham của Điều Ngự Giác Hoàng với các thiền sinh, chẳng hạn: “Thế nào là một việc hướng thượng? Sư đáp: Khèo nhật nguyệt trên đầu tríich trượng. Lại hỏi: Dùng công án cũ mà làm gì?- Mỗi lần dùng đến lại thành mới tinh. – Thế nào là truyền riêng ngoài giáo điển? Con ểnh ương nhảy không khỏi cái đấu.”

Ngoài những đại tham, có những cuộc tiểu tham xảy ra tùy theo những cơ duyên khác nhau, căn cơ khác nhau bên ngoài pháp tòa giữa các thiền sinh với nhau, hoặc các thiền sinh với thiền chủ…để đập vỡ các vấn đề đã từng ưu tư, trăn trở, nghi vấn, để bước vào thế giới Thiền.

Với một nội dung chương trình tu học bảo đảm tính tri hành hợp nhất như thế, do đó, thời khóa tu tập của chư Tăng, Ni trong các thiền đường đời Trần, hầu như được các vị Thiền chủ, ban Quản trị bố trí kín từ bốn giờ sáng cho đến 22 giờ chỉ tịnh. Ngoài việc chấp tác, thực thi các thời khóa, bái sám, qúa đường, tọa thiền, các hành giả còn phải tham gia học luật, các buổi giảng kinh đại thừa, tham dự các buổi đại tham, tiểu tham do Tam Tổ Trúc Lâm chủ trì. Rõ ràng, trong một bối cảnh lịch sử cả dân tộc phát huy nội lực, đề cao ý thức độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, kể cả tôn giáo để xây dựng đất nước, việc Giáo hội Trúc Lâm xem việc an cư kiết hạ, đào tạo Tăng Ni, giảng dạy cho Phật tử là một trong chương trình Phật sự trọng tâm của Phật giáo cần được thực thi hàng đầu. Suy cho cùng, mục đích của an cư kiết hạ của giới xuất gia Phật giáo, giảng pháp cho Phật tử là nhằm nâng cao trình độ thẩm thấu giáo nghĩa Phật đà, hướng đến sự trưỡng dưỡng nội tâm, thành tựu Phật tâm ngay giữa đời này. Một khi giới đức được nghiêm tịnh, tâm thức định tĩnh, trí tuệ khai mở, thì tự thân mỗi cá nhân sẽ tự hoàn thiện cho chính mình và có khả năng đóng góp tích cực cho cộng đồng xã hội.

Nhìn chung, đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần là nhập thế tích cực cho đời và làm cho đời sáng tươi. Chính tinh thần này mà Giáo hội đã được các vương triều nhà Trần ủng hộ, quần chúng tin theo, điều đó cũng có nghĩa các tăng sĩ đời Trần là những nhà tu hành có giới đức thanh tịnh, định lực kiên cố, và trí tuệ thăng chứng đã góp phần làm cho đạo pháp trường tồn, dân tộc hưng thịnh, nhân dân an lạc. Mỗi kỳ an cư là mỗi lần Giáo hội cùng phối hợp với Triều đình có chủ trương xây dựng, thiết kế chương trình tu học thời khóa thật cụ thể, để sau một mùa an cư điều đem lại sự đắc pháp cho các hành giả và lợi lạc cho mọi người dân Phật tử. Trên hết, kỳ an cư kiết hạ, thực sự đã làm sống dậy tinh thần Phật giáo Đại Việt, góp phần làm nên lịch sử dân tộc, lịch sử Phật giáo nước nhà mà chúng ta có nhân duyên để nhìn lại và định hướng trong cuộc hành trình tìm về cội nguồn giải thoát.

Cho nên, bất cứ vị tăng sĩ nào trong thời Trần đều cũng được ao ước trở về Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, hay những đạo tràng an cư của Trung ương Giáo hội để kiết hạ như là được sống trên Thánh địa, “đại bản sơn” của Phật giáo Trúc Lâm, nơi đây được xem là Phật quốc, chẳng khác nào Tây Trúc, Linh Thứu mà đệ Tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang mô tả trong bài Vịnh Vân Yên tự phú bằng chữ Nôm. Cũng trong ý nghĩa này mà ngày nay, đã là người Phật tử Việt Nam, bất kỳ ai cũng mong rằng có một lần ít nhất trong đời được về chùa Vĩnh Nghiêm, hay Yên Tử chiêm bái và tu học: “Ai qua Yên Tử – Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm chưa đến, thiền tâm chưa đành” hay “Dù ai quyết chí tu hành, Có về Yên Tử mới đành lòng tu”.

Rõ ràng, chùa Vĩnh Nghiêm thật sự trở thành trung tâm hoằng pháp, cơ sở đào tạo Tăng tài, nơi hội tụ quần chúng tu học giáo lý Phật đà thuộc hệ thống Trúc lâm – Yên Tử thời Trần. Trong một không gian xa lắm, sự kết nối giữa chùa Vĩnh Nghiêm và các chùa trên quần thể núi Yên Tử và Quỳnh Lâm đã tạo nên một dấu ấn lịch sử Phật giáo, đã góp phần cho sự phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam lên một tầm vóc vừa quy mô về hệ thống tổ chức sinh hoạt Giáo hội và thể nhập đời sống, nhưng đồng thời cũng có vai trò rất quan trọng trong việc chấn hưng văn hóa nước nhà, nhất là trong việc góp phần xây dựng một quốc gia Đại Việt trở nên hùng cường an ninh vững chắc.

Còn nữa