Trang chủ Thời đại Đạo Phật và “trường phái kiến tạo” trong khoa học quan hệ...

Đạo Phật và “trường phái kiến tạo” trong khoa học quan hệ quốc tế

81

Trong bài viết này, chúng tôi xin được ghi nhận yếu tố Phật giáo ở một trường phái khoa học quan hệ quốc tế, được gọi là trường phái kiến tạo (constructivism).

Đúng ra, phải gọi là học thuyết kiến tạo, hay chủ nghĩa kiến tạo (vì từ “trường phái” thường được dùng để dịch từ “school”), nhưng vì trên thực tế, đây chỉ mới là một thuyết có tính cách học thuật, hơn là một “chủ nghĩa” theo cách hiểu thông thường của người Việt, nên chúng tôi xin phép dịch bằng từ “trường phái”.

Khoa học về quan hệ quốc tế còn tương đối mới mẻ với bạn đọc Việt Nam. Sách, tài liệu giáo trình tiếng Việt của bộ môn này còn khá hiếm hoi, chủ yếu chỉ lưu hành trong Học viện Quan hệ quốc tế và một số trường đại học. Sách tiếng nước ngoài cũng nhập vào rất hạn chế, vì tính chất chuyên môn hẹp của nó.

Vì vậy, trước khi đi vào trường phái kiến tạo, chúng tôi xin điểm qua một số trường phái, học thuyết khác trong khoa học quan hệ quốc tế.

Có thể kể đến các trường phái chính: trường phái hiện thực, trường phái tự do, trường phái kiến tạo.

Trong mỗi trường phái lại có thể có những trường phái nhánh rẽ.

Xuất xứ các trường phái chính trong khoa học quan hệ quốc tế hiện nay chủ yếu là từ Mỹ và Châu Âu.

Sự khác biệt giữa các trường phái học thuật trong khoa học quan hệ quốc tế, thậm chí trái ngược nhau, mâu thuẫn nhau, thậm chí cạnh tranh nhau trong việc ảnh hưởng, đào tạo các nhà chính trị, ngoại giao, chính khách…

Các học thuyết trường phái đưa ra những cách lý giải khác nhau về quan hệ quốc tế, những mối quan tâm khác nhau, những đối tượng nghiên cứu khác nhau…

Có những trường phái, học thuyết hoàn toàn xa lạ với đạo Phật. Chẳng hạn, trường phái hiện thực, có ảnh hưởng lớn ở phương Tây trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trường phái này xem quan hệ quốc tế là một cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các nước, trên cơ sở lợi ích quốc gia, sẵn sàng tiến hành xung đột, chiến tranh.

Các học giả theo chủ nghĩa hiện thực thường đưa ra những dự báo về gây hấn, bùng nổ xung đột. Theo họ, đặc tính của thế giới là vô chính phủ, tức là không có  một thế lực điều hòa, bảo vệ lợi ích quốc gia. Còn các quốc gia đều có yếu tố nội sinh là chi phối, thống trị các nước khác. Cho nên xu thế chiến tranh, cạnh tranh, xung đột, mâu thuẫn là tất yếu.

Nhiều nhánh nhỏ trong trường phái hiện thực càng cực đoan hơn. Có trường hợp đề cao quan điểm tấn công.

Chủ nghĩa tự do thì đề cao các quan hệ kinh tế, nhấn mạnh rằng sự liên kết kinh tế, các mối quan hệ kinh tế, đưa tới sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế sẽ hạn chế chiến tranh.

Các học giả theo trường phái tự do coi ước muốn thịnh vượng, mong muốn yên ổn làm giàu, xây dựng kinh tế, phát triển có vai trò quan trọng, chứ không phải yếu tố “xâm kích”, chế ngự nước khác.

Các nhánh của học thuyết tự do đề ra những phương thức hợp tác, những ưu tiên hợp tác kinh tế, có quan điểm lạc quan.

Đối tượng của 2 trường phái hiện thực tự do đều là nhà nước. Trường phái tự do mang màu sắc hòa bình, nhưng đó là hòa bình từ kinh tế, có yếu tố lòng tham kinh tế.

Quan niệm của đạo Phật về  hòa bình, về quan hệ giữa con người với con người, về bản chất các mối quan hệ… có thể tìm thấy ở trường phái kiến tạo, cũng có thể gọi là trường phái xây dựng.

Các học giả của trường phái kiến tạo không hẳn đã tiếp thu tư tưởng của Đức Phật, tuy nhiên, rõ ràng, là họ tư duy như đạo Phật. Đó là sự đồng quy của tiến bộ.

Nếu đối tượng của trường phái hiện thực và tự do, cũng như nhiều trường phái khác trong khoa học quan hệ quốc tế là nhà nước, thì đối tượng của trường phái kiến tạo là cá nhân.

Đạo Phật quan niệm “nhất thiết duy tâm tạo” hòa bình đến từ bên trong, trong mỗi con người, thì trường phái kiến tạo cũng quan niệm như thế.

Trường phái kiến tạo đặt sự lưu tâm vào ý tưởng, sự chuyển biến suy nghĩ ở mỗi con người. Nói theo đạo Phật, là đề cao vai trò của “tâm”. Nó đối lập với các trường phái đề cao công cụ sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế, các công cụ chính trị bên ngoài.

Chúng ta nhớ tới Pháp cú: “Trong các pháp, tâm là chủ, tâm dẫn đầu, tâm tạo tác tất cả”. Dường như quan niệm này chi phối rất lớn đối với trường phái kiến tạo.

Cái khác, có nhưng không lớn, là trường phái kiến tạo, tuy nhấn mạnh đến ý tưởng (“tâm”) từ mỗi cá nhân, tuy vậy, có hướng nhiều hơn đến với giới tinh hoa, nhất là tinh hoa chính trị (quan chức, chính khách, học giả, trí thức…).

Trong khi đạo Phật thì có quan điểm bình đẳng hơn, không có sự phân biệt.

Nhưng có lẽ, quan niệm như những học giả của trường phái kiến tạo cũng không sai, nếu xét trên lý nhân duyên của nhà Phật. Giới tinh hoa chính trị, những nhà hoạt động chính trị, giới trí thức… những người chi phối nhiều hơn đến hoạt động tinh thần, quan hệ đối ngoại của quốc gia, tất nhiên sẽ có “duyên” nhiều hơn đối với việc quyết định quan hệ quốc tế, so với những người lao động chân tay, lao động phổ thông, tầng lớp bình dân…

Yếu tố ý thức, tư tưởng, ý tưởng, tư duy tất nhiên liên hệ nhiều đến giới tinh hoa. Tuy nhiên vẫn có thể thấy rằng “các học giả này theo trường phái kiến tạo” tập trung sự chú ý vào những diễn biến chính trong tư tưởng (discourse) của xã hội bởi vì các diễn biến đó phản ánh và làm sâu sắc thêm niềm tin và lợi ích, đồng thời tạo ra những chuẩn tắc hành vi được chấp nhận” (1). Tức là sự nhấn mạnh giới tinh hoa cũng chỉ là tương đối.

Không đặt nặng sức mạnh của vũ khí, của tiền bạc, của bản năng bạo lực, chế ngự đối tượng khác, của bản năng làm giàu, trường phái kiến tạo quả đã có những tiến bộ, những tiến bộ đó đã, trong một chừng mực nào đó, tương đồng với Phật giáo.

Tiến tới thấy được vai trò của tâm, của cá nhân, trường phái kiến tạo đã đồng quy với đạo Phật, trong xu thế coi trọng vai trò con người, của ý tưởng, của “tâm”!.

MT

1. Nhiều tác giả: Lý luận Quan hệ Quốc tế, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội, 2007 (Lưu hành nội bộ)