Nghi lễ được liên tục sáng tạo, do đó, tất yếu tạo nên sự khác biệt theo hệ phái, tông phái… và trong mỗi hệ phái Phật giáo, lại có sự khác biệt theo không gian (địa phương, vùng miền) và thời gian. Đó là hệ quả tất yếu và tự nhiên của một tôn giáo có sự phát triển cá biệt hoá, phi tập trung, không có giáo quyền trung ương toàn cầu như Phật giáo.
Quá trình sáng tạo nghi lễ Phật giáo là một quá trình đang được tiếp tục. Trong thế kỷ XX, nghi lễ vẫn tiếp tục sáng tạo, mà điển hình là sự ra đời của hệ phái Khất sĩ, với các nghi thức tụng niệm riêng.
Đi chùa Ấn Quang vào những năm 1970, ở một đạo tràng, chúng tôi vẫn thấy nghi lễ được sáng tạo, qua những nghi thức tụng niệm mới được biên soạn, in roneo, còn thơm mùi mực.
Trong nghi lễ mới, thần chú không được phiên qua âm Hán Việt nữa nên nghe rất “hiện đại” vào lúc đó. Bài hát Trầm hương đốt cũng được đưa vào đầu khoá lễ, nên những Phật tử trẻ tuổi rất thích, trong khi những Phật tử lớn tuổi thì cảm thấy hơi “khó khăn”, vì những câu tán quen thuộc: “Lư hương sạ nhiệt/Pháp giới mông huân…” không còn được dùng.
Và quá trình sáng tạo nghi lễ đó vẫn tiếp tục, khi một số vị thượng toạ trung niên trong nước cũng như ngoài nước biên soạn liên tục những bài sám mới, kết hợp với những nghi lễ mới để đưa vào đạo tràng của mình.
Một số tôn giáo có nghi lễ thống nhất từ đầu não giáo quyền trung ương toàn cầu cũng thay đổi quan điểm, dành chỗ cho sự sáng tạo tất yếu của thời đại và của địa phương, thay vì bắt tín đồ phải đọc những câu kinh bằng cổ ngữ thống nhất mà không mấy ai còn hiểu nghĩa.
Đối với tôn giáo mà nghi lễ đã có tính thống nhất cao độ, nay còn phải “giải” ra như thế, còn đối với đạo Phật, một tôn giáo mà nghi lễ đã phân hoá cao độ, thiên về xu hướng “sáng tạo”, “phát triển”, thì nay tính chuyện “buộc” vào sự “thống nhất”, thì liệu có thể rơi vào tình trạng “duy ý chí”, không khả thi, không thực tế?
Chỉ một câu niệm Phật Thích Ca, năm tôi mới đi chùa, chỉ nghe duy nhất mỗi một câu “Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật”. Sau hai mươi năm, thì đã trở thành nhiều câu: “Nam Mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni”, “Nam mô Bụt Bổn sư Thích Ca Mâu Ni”, “Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Có băng giảng, chỉ câu niệm Phật mở đầu, vị chủ lễ từ nước ngoài về niệm “Bụt”, trong khi Phật tử trong nước quen với cách cũ nên niệm “Phật”, gây ra tình trạng lộn xộn, thậm chí đến trong lần niệm thứ hai cũng chưa ổn.
Chỉ một câu niệm Phật, trong thực tế đã diễn tiến như thế, thì nay nói chuyện thống nhất nghi lễ, thì có thực tế, có khả khi không?
Thống nhất bằng cách biên soạn một nghi lễ mới tổng hợp, hay lấy một dạng nghi lễ phổ biến nhất làm chuẩn, xoá đi các nghi lễ dị biệt, để chỉ còn một nghi lễ, gọi là nghi lễ “thống nhất”?
Cái khó không phải ở chỗ biên soạn, mà ở chỗ triển khai thực hiện nghi lễ mới. Nghi lễ thể hiện sự đặc trưng hệ phái, tông phái địa phương, đạo tràng, thậm chí phong cách cá nhân của vị viện chủ, trụ trì. Đó là đặc điểm cố hữu của Phật giáo.
Sự khác biệt đó vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực, nhưng xu thế chung trong đạo Phật là vậy, khó mà cưỡng lại. Và như đã nói, nó đang trên đà tiếp tục. Chặn đứng sự tiếp tục có những khác biệt mới đó cũng đã là khó, nữa là nói đến chuyện “thống nhất” nghi lễ!
Ở quận 3, TPHCM chẳng hạn, ở những ngôi chùa cách nhau vài trăm mét, đã thấy những nghi lễ khác hẳn nhau. Thống nhất nghi lễ Phật giáo trong phạm vi vài trăm mét đó đã là chuyện khó, huống nữa là trong phạm vi cả nước.
Có lẽ, không phải chỉ Phật giáo Việt Nam mới có sự khác biệt nghi lễ. Ở các hệ phái, chùa chiền Phật giáo ở nhiều nước mà Phật giáo chiếm đa số, cũng có sự khác biệt.
Các đài truyền hình Campuchia như CTN, Apsara, TV5, Bayon TV…thường có các khoá lễ Phật giáo mở đầu buổi phát hình, nhưng không nghi lễ trên đài nào giống với đài nào. Chúng ta đều biết trong một bài trước đây, Hoàng gia và đảng chiếm đa số trong chính phủ ở Campuchia hậu thuẫn 2 hệ phái Phật giáo khác nhau. Từ đó, tất yếu dẫn đến các đài truyền hình trực thuộc trình chiếu nghi lễ của các hệ phái Phật giáo tương ứng với sự hậu thuẫn của cấp chủ quản.
Sự khác biệt về nghi lễ cũng có thể thấy trên các kênh Phật giáo Đài Loan, với mỗi tông phái điều hành một kênh truyền hình.
Dù cùng là Nam Tông, như Phật giáo Campuchia, hay cùng là Bắc Tông, như Phật giáo Đài Loan, cũng vẫn có sự khác biệt nghi lễ. Huống chi là ở một quốc gia mà Phật giáo có cả Nam và Bắc tông như ở nước ta.
Chúng tôi nghĩ rằng mục tiêu thống nhất nghi lễ Phật giáo Việt Nam là một việc rất tốt, nhưng trong thực tế sẽ không thực hiện được, thậm chí không ngăn được việc phát sinh các dạng có tính chất nghi lễ mới, đặc biệt là ở phần sám pháp đối với Bắc Tông.
Chúng tôi được biết, trong một số gia đình Việt Nam hiện nay, nhiều thế hệ sống chung trong một ngôi nhà, có sự khác biệt tôn giáo đã đành. Nhưng chỉ trong số những người còn theo Phật giáo, trước một bàn thờ Phật chung, đã có hiện tượng nhiều nghi lễ khác nhau được tiến hành.
Cháu ngoại theo Phật giáo Nam tông thì niệm “Nammô Tasa Bhagavatô Arahatô…”, cháu nội tu niệm Phật, thì cúng Phật theo nghi thức Tịnh độ, con dâu tu theo pháp môn Làng Mai thì tập tụng các bài hạnh nguyện bằng tiếng Anh…
Ông bà dù quyền hành và mong muốn đến đâu cũng không thể thống nhất nghi lễ Phật giáo cho chỉ riêng đám con cháu may mắn còn giữ đạo Phật đó. Trong một nhà đã vậy, thì nói chi đến một nước, với mấy chục triệu tín đồ.
Bàn chuyện nghi lễ hiện nay, theo ý kiến chủ quan của chúng tôi, là nên hướng đến sự tinh giản, chấp nhận sự đa dạng nghi lễ hệ phái, tông phái, địa phương, định hướng cho sự sáng tạo và hiện đại hoá, trên tinh thần thích nghi với thời đại. Nghi lễ như những bông hoa dâng cúng lên đức Phật. Nếu cùng thể hiện sự kính ngưỡng, hãy để “trăm hoa đua nở”.
Đức Phật nói kinh pháp, định giới luật, Ngài không đề ra nghi lễ nào cụ thể để tế lễ lại chính ngài. Nhưng những nguyên tắc chung của nghi lễ đã có trong kinh điển. Hai ngàn năm trước, sau khi đức Phật Niết Bàn, các đệ tử của Ngài đã sáng tạo nghi lễ và đến nay vẫn còn tiếp tục sáng tạo. Tăng ni Phật tử toàn thế giới đều lạy Phật, nhưng chư tăng, Phật tử Tây Tạng lạy Phật khác với chư tăng, Phật tử Campuchia, càng không giống với chư tăng và Phật tử Việt Nam…
Tinh thần lạy Phật đã có trong kinh điển, nhưng có cần đặt vấn đề thống nhất nghi lễ lạy Phật thống nhất toàn thế giới không, hay cứ để mỗi nơi, mỗi thời đại lạy Phật theo kiểu mà mỗi nơi, mỗi lúc người con Phật thấy là thích hợp. Và thực tế, dù là vị tôn đức có uy tín toàn cầu như Đức Đạt lai Lạt ma hiện nay đi nữa, cũng không thể đứng ra thống nhất chỉ mỗi nghi lễ lạy Phật được.
Nghi lễ của đạo Phật là nghi lễ mở. Lịch sử Phật giáo toàn thế giới và lịch sử Phật giáo Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Trong khi thống nhất nghi lễ là định ra một cái khuôn và đóng nó lại.
Thiết tưởng, cũng không thể đặt vấn đề “thống nhất nghi lễ long trọng”, vì thế nào là long trọng và thế nào là chưa đến mức long trọng. Việc định ra tiêu chí cho mức độ “long trọng” sẽ lại tạo ra vô số những khác biệt mới và ngày càng xa sự thống nhất.
Bàn luận về thống nhất nghi lễ, theo chúng tôi, trước hết phải thực hiện bước tinh giản nghi lễ. Vì có tinh giản thì mới dễ dàng thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất là một nghi lễ tinh giản đến mức Phật tử thuộc hệ phái, tông phái nào đều có thể thực hiện chung được. Từ đó, mới có thể đi đến giai đoạn bàn luận việc thống nhất nghi lễ.
Nghi lễ phức tạp, chỉ một thiểu số tăng ni Phật tử có thể thực hiện, thì tất nhiên không thể có sự thống nhất. Thống nhất trong thiểu số thì mặc nhiên không có giá trị.
Cách làm trước đây của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tại miền Nam từ năm 1964 hướng tới sự thống nhất nghi lễ là một kinh nghiệm, có thể là một bài học vẫn còn giá trị tham khảo. Đó là thống nhất nghi lễ theo nguyên tắc cử hành tuần tự nghi lễ của các hệ phái trước Phật đài.
Chính trong việc thực hiện tất cả các nghi lễ khác biệt trong những cuộc lễ chung, không bỏ qua, không loại trừ nghi lễ hệ phái, tông phái nào đã là thể hiện sự thống nhất trong nghi lễ.
Trong lễ Vesak 2008 tổ chức tại Hà Nội, chúng ta đã thấy một sự thể hiện nghi lễ thống nhất như vậy, khi những vị tôn đức trong trang phục khác nhau của các hệ phái tiếp nối cử hành những nghi lễ khác nhau, đa dạng, nhiều hình thức trước thánh tượng Đức Bản sư.
Nghi lễ khi đó hết sức tinh giản, và mặc nhiên, trở thành nghi lễ thống nhất cho các phái đoàn Phật giáo thế giới.