Phật giáo được du nhập và nước ta khá sớm, dần phát triển và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Đến thời Đinh – Lê, các nhà sư được triều đình trọng dụng, trao chức tước, trực tiếp tham gia vào các công việc trọng đại của nhà nước (1). Dễ nhận thấy, trước thời Lí, Phật giáo đã xác lập được vị trí khả quan trong xã hội.
Sang thời Lí, vị vua sáng nghiệp Lí Thái Tổ vốn xuất thân từ cửa Thiền, rất mực tôn sùng đạo Phật; điều này được các vị vua sau đó kế thừa và phát huy, khiến thời Lí trở thành giai đoạn phát triển huy hoàng của Phật giáo. Truyền thống đó kéo dài chí ít đến giữa thời Trần.
Trong những năm đầu triều Lí, ngay khi mới lên ngôi được ít lâu, Lí Thái Tổ đã cho xây dựng nhiều chùa, độ cho hàng ngàn tăng ni… việc làm đó bị sử gia Lê Văn Hưu phê phán nặng nề, cho là “vét máu mỡ của dân” và để lại cái gương rất xấu cho con cháu sau này:
“Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng?
Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?" (Đại Việt sử kí toàn thư – Kỉ nhà Lí – Thái Tổ hoàng đế)(2).
Cùng quan điểm đó, khi nhận xét tổng quan về Lí Thái Tổ, tác giả Đại Việt sử kí toàn thư tuy có khen ở một số điểm, nhưng với việc nhà vua tôn sùng Phật giáo cũng công khai chê trách: “Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã, có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy vào chuyện đó” (Đại Việt sử kí toàn thư – Kỉ nhà Lí – Thái Tổ hoàng đế)(3).
Với vua Lí Nhân Tông, Ngô Sĩ Liên cũng có cách đánh giá tương tự: “Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó là điều lụy cho đức tốt.” (Đại Việt sử kí toàn thư – Kỉ nhà Lí – Nhân Tông hoàng đế).(4)
“Chính học” mà Ngô Sĩ Liên nhắc đến hiển nhiên là Nho giáo, còn “dị đoan” chính là Phật giáo. Nếu như đệ tử nhà Phật thường có cái nhìn khoan dung đối với các học thuyết khác thì nhà nho về căn bản không như vậy.
Các nhà nho có niềm tự hào sâu sắc về học thuyết của mình, coi đó là chính đạo, thánh đạo, lấy đó làm bản vị, nhìn các học thuyết khác với cái tâm sai biệt, coi thảy đều là “dị đoan” (mối lạ), thấp kém dưới tầm – “tiểu đạo” (cái đạo nhỏ nhoi) – thậm chí là “tà thuyết” (học thuyết tà vạy).
Với những điều mà Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đã phê phán Lí Thái Tổ, Lí Nhân Tông cũng như nhiều ông vua sùng Phật giáo khác của thời Lí – Trần, có thể nhận thấy rõ ràng lập trường quan điểm của họ là Nho gia.
Cái nhìn của nhà nho đối với Phật giáo có chỗ khắt khe, nhất là đối với những giai đoạn Phật giáo được cả xã hội sùng chuộng, Nho gia ở vị trí kém thế hơn, “đạo bất đồng bất tương di mưu”, nhà nho cố nhiên không thể cảm thông và tất nhiên càng không muốn truy cứu cái căn nguyên sâu xa của hiện tượng mà họ đã phê phán, và vì vậy, ta cũng khó có thể hi vọng thông qua những gì họ đã viết để hiểu về quan niệm của người đương thời về một số vấn đề liên quan đến sự phát triển của Phật giáo đương thời.
1. Về việc xây dựng chùa tháp theo quan niệm của người thời Lí:
Sơ bộ thống kê qua Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, phần ghi về thời nhà Lí, có đến khoảng 40 lần nhắc đến việc xây chùa dụng bia, xây tháp, đúc chuông… hẳn số lượng công trình Phật giáo được xây dựng bấy giờ lớn hơn rất nhiều; các di văn Hán Nôm như bia đá, chuông đồng… gắn với các di tích đó cũng khá phong phú.
Tiếc rằng đến nay, trải qua thời gian lâu dài cùng nhiều biến động lịch sử khác nhau, văn khắc thời Lí bị mai một khá nhiều, số lượng tác phẩm hiện còn rất ít. Thống kê trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập I: Từ Bắc thuộc đến thời Lí (Sách do Viện Viễn đông bác cổ Pháp và Viện Nghiên cứu Hán Nôm đồng phối hợp thực hiện, Paris-Hà Nội, 1998), tổng số các tác phẩm văn khắc (chủ yếu là văn bia) gồm 17 tác phẩm.
Trừ Trăn Tân từ tích đã được chứng minh là bia của giai đoạn khác(5), số còn lại là 16. Gần đây, tuy có phát hiện thêm một số văn bia thời Lí, chẳng hạn Minh Tịnh tự bi văn (văn bia chùa Minh Tịnh), nhưng số lượng tác phẩm nhìn chung chỉ dao động ở con số trên dưới 20 tác phẩm.
Trong số các tác phẩm này, ngoài một số ít bia mộ, số còn lại đều là các bia công trình, gắn với việc xây dựng các chùa tháp lớn, quan trọng, liên quan tới giới quý tộc, quan chức hoặc các thiền sư có uy tín.
Trên cơ sở các tác phẩm văn khắc thời Lí hiện còn, điều trước tiên có thể thấy việc dựng chùa dưới thời này, nhất là các chùa lớn đều do chủ trương của nhà nước, có khi do nhà vua, triều đình tiến hành, có khi do các quan chức cấp cao thực hiện.
Chẳng hạn như việc dựng chùa tháp ở núi Long Đội (Đọi) là do triều đình nhà Lí, mà đứng đầu là Lí Nhân Tông chủ trương. Việc dựng chùa Ngưỡng Sơn ở núi Linh Xứng là do Lí Thường Kiệt khởi xướng. Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là do Thông phán Chu Công, đương thời là quan trấn thủ tại quận Cửu Chân, Thanh Hóa trùng dựng.
Ngay cả tên gọi của các chùa tháp cũng rất đáng lưu ý, chẳng hạn chùa: Báo Ân (báo ơn [nhà vua]), Sùng Nghiêm Diên Thánh (tôn sùng sự uy nghiêm, [cầu cho] bậc thánh quân kéo dài tuổi thọ…), tháp Sùng Thiện Diên Linh (tôn sùng điều thiện, kéo dài tuổi thọ [của nhà vua])…
Trong các bài văn khắc, cuối phần kí (tự) thường xuất hiện các câu như: “Nguyện chúc hoàng thượng ngự ngôi báu đời đời; giữ gương huyền mãi mãi. Phận dẫu chỉ là bề tôi giữ đất; vẫn mang chí mong được gần trời. Thứ chúc quận quân, nương đạo cùng con gái, con trai: gái thì trọn đạo vu quy, đá vàng chung thủy; trai thì hết lòng phụng dưỡng, tùng bách xanh tươi…”(6) (Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi).
Thông phán Chu công dựng chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh nhằm mục đích “chúc tụng quốc vận dài mãi”. Không chỉ dừng ở việc cầu phúc cho nhà vua và triều đại mà còn cho khắp lượt chúng dân: “Xin chúc thánh vận phồn thịnh, ứng đất trời mà phụ hóa; hoàng đồ dài mãi, hưởng phúc lớn muôn đời. Năm hành thuận tự, bảy chính tề cơ, đầy kho ứ đụn, biên cảnh yên vui. Thứ đến chúc cho bọn người có duyên cùng Phật pháp: thân sinh năm phúc, sông cạn nào sai; muôn kiếp hai nhân, trâm rơi chẳng mất. Cho tới khắp trong cả nước, cả những bọn xuẩn động, tắm nhân duyên này, chứng vô sinh nhẫn” (Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh).
Như vậy, có thể thấy việc xây dựng chùa tháp dưới thời Lí có gắn bó chặt chẽ với thể chế, nhà vua, giới quý tộc, quan liêu, nhằm vào việc cầu mong cho vận nước dài lâu, nhà vua trường thọ, dân chúng được an hưởng cảnh thái bình trịnh trị.
Do việc dựng xây dựng chùa tháp thời Lí, nhất là các chùa tháp lớn đều có quan hệ rất mật thiết với giới quý tộc và quan chức cấp cao, nên quan niệm về việc xây dựng các công trình đó có thể xem là quan niệm chính thức của nhà nước và xã hội đương thời; quan niệm đó được thể hiện rất rõ ràng trong phần mở đầu của các văn bia thời Lí, chúng tôi gọi là phần “thuyết lí duyên khởi”.
Cảm hứng chủ đạo của phần thuyết lí – duyên khởi là thuyết giảng và ca tụng, dựng nên những quan niệm như là những nguyên lí hiển nhiên cho của sự tôn sùng Phật giáo, từ đó dẫn nhập vào phần tự sự tiếp sau. Trong văn bia thời Lí, đây là phần được viết một cách uẩn súc, uyên bác, giàu chất lí luận nhất; sử dụng nhiều điển tích Phật giáo cũng như những kiến thức về Phật học nói chung.
Về nội dung, phần thuyết lí – duyên khởi thường ca tụng sự nhiệm màu của đạo, thuyết giảng giáo nghĩa Phật môn, như các phạm trù “không” và “hữu”; khi nói quan hệ giữa “nhất” và “chân”, lúc bàn quan quan hệ giữa “muôn” và “một”; khi thì giảng cứu về “núi Pháp”, “bể Thiền”; lúc lại đề cập đến “thường”, “lạc”, “ngã”, “tịnh”.
Trong phần thuyết lí – duyên khởi này, các tác giả cũng không quên nói đến sự giáng thế, cái quyền năng vô lượng và công lao phổ độ chúng sinh của đức Phật, đấng giác ngộ toàn năng, bởi cảm thương chúng sinh ngu tối: niềm dục tuôn trào như bể, sân si chứa chất nên non.
Cho nên ngài đã xuất hiện: để mở rộng cửa giác ngộ, nêu tỏ nghĩa diệu huyền; dập tắt ngọn lửa núi ngờ rừng rực, lắng ngọn triều bể ái mênh mông, mở cửa phương tiện, thức ngộ chúng sinh, khiến cho họ không xa rời bản tính tốt đẹp của mình, biết hướng về điều chân điều thiện.
Nhưng rồi, sau khi “Phật ở trần thế bẩy mươi chín năm, thiết lập tám vạn bốn nghìn giáo pháp” (Lí gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi), ngài đã “phủi áo ở rừng Song Thụ, trút dép ở ao Kim Sa” (Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh), “trở về cõi tịch diệt” (Viên Quang tự bi minh tính tự), kết thúc một giai đoạn quan trọng trong tiến trình lịch sử của Phật giáo.
Từ đây, người đời không còn thấy được chân thân đức Phật, dẫu người đệ tử Phật môn có niềm tin rằng ở khoảng 500 năm sau khi Phật tịch diệt, nhờ ảnh hưởng thần lực của Phật, người tu dễ đắc đạo thì liền sau đó, giới tăng lữ Phật giáo cũng phải tiến hành kết tập kinh điển, tạc tượng, xây chùa, dựng tháp, đúc chuông… tôn sùng tượng giáo.
Tượng giáo là cái mà nhà Phật dùng làm phương tiện thực hành đạo pháp. Lí Thừa Ân trong Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi cũng cho rằng: “Bắt đầu xây dựng chùa này, hết dạ tôn sùng tượng giáo”. Ngay như Trương Hán Siêu thời Trần, người từng có phát ngôn chính thức công kích tín đồ đạo Phật cũng từng khẳng định: “Tượng giáo được đặt ra là để đạo Phật dùng làm phương tiện tế độ chúng sinh, chính vì muốn khiến kẻ ngu mà không giác ngộ, mê mà không tỉnh lấy đó làm nơi trở về thiện nghiệp” (Khai Nghiêm tự bi kí).
Từ giai đoạn chính pháp chuyển sang giao đoạn tượng pháp, tượng giáo càng được coi trọng. Trong phần thuyết lí duyên khởi, các tác giả văn khắc thời Lí đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn tượng pháp, cho rằng lúc này, “Điều đáng tham cứu không gì lớn hơn tượng pháp, mà sùng thượng tượng pháp không gì bằng chùa chiền”.
Giác Tính Hải Chiếu viết trong Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh một cách rất sâu sắc rằng:
“Phật tổ soi tỏ cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; Thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt muôn biến. “Muôn” là sự phân tán của “một”; “một” là cội gốc của “muôn”. Đến như các bậc hiển thánh thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy lên. Nhóm cái đã phân tán để đưa nó về cội gốc; ôm cái “một” để thâu tóm cái “muôn”. Tạc nên hình tượng là biểu thị “sự thâu tóm”; dựng nên đền tháp là để biểu hiện “sự hướng về”. Hết tâm sức để kinh doanh; bỏ châu ngọc mà không tiếc. Cho nên đường thì đặt ranh giới bằng giây vàng; hiên thì phô sự quý giá của rèm châu. Tuy rằng hết đỗi trang nghiêm, mà vẫn không hề xa xỉ. Bởi mục đích là để tìm cái “nhất” và cái “chân”, chứ đâu phải chỉ cốt làm cho tấm lòng và con mắt chói lòa mà khoe khoang sự tráng lệ vậy”.
Như vậy, dưới thời Lí, trong quan niệm của người đương thời, việc xây chùa dựng tháp là biểu hiện của sự tôn sùng tượng giáo, là đặc điểm ưu trội và nguyên lí hiển nhiên trong thời kì tượng pháp… chùa chiền chính là nơi để dân chúng hướng về, là phương tiện để tế độ cho chúng sinh, có đóng góp trực tiếp và thiết thực cho việc trị lí quốc gia theo hướng Phật giáo hóa đời sống tinh thần xã hội, và vì thế, nó không chỉ là việc làm tự phát của cá nhân, mà còn là chủ trương lớn của nhà nước.
2. Về ông vua thời Lí:
Vào thời Lí – Trần, khi mà Phật giáo được đề cao, được coi như quốc giáo thì dường như vào thời điểm ấy, ông vua ngoài chức năng của một vị vua còn kiêm vai trò là giáo chủ, hoặc giả có là có một sự đồng nhất nào đó giữa ông vua với đức Phật để tạo ra một hình tượng vua Phật (Phật hoàng, Giác hoàng).
Tuy nhiên, đến thời điểm này, khi nói đến vua Phật, người ta thường nghĩ ngay đến Trần Nhân Tông, vì Trần Nhân Tông vừa là một vị vua giỏi của nhà Trần, lại là người chuyên tâm tu trì Phật pháp, khai sinh ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, ngay khi ông mới ra đời, “sắc diện như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật – Phật bằng vàng”; sau khi ông mất, được suy tôn tôn hiệu là “Đại thánh Trần triều Trúc Lâm đầu đà Tịnh Tuệ giác hoàng Điều Ngự tổ Phật” (Thánh đăng ngữ lục – Trần triều Nhân Tông hoàng đế. Hai chữ “Điều Ngự” liên quan đến danh hiệu của Phật tổ, một trong các danh hiệu của Phật tổ là “Điều Ngự trượng phu”).
Phải chăng tại Việt Nam, việc đồng nhất hoàng đế với Phật để tạo ra hình tượng vua Phật chỉ xuất hiện vào thời Trần với đại diện tiêu biểu là Trần Nhân Tông hay đã đã xuất hiện sớm hơn, hoặc giả là một cách quan niệm phổ quát về hình tượng ông vua trong thời đại Phật giáo được tôn sùng? Đó là những điều nên làm sáng tỏ.
Khá giống với nhà nho, cho tính người là thiện, là thiên lí trong tâm ta, rất mực trong trẻo và thuần thành vì nó có nguồn gốc tiên thiên, chỉ vì khí bẩm vật dục che lấp mà trở nên mờ tối, khiến cho nhân nghĩa bị sung tắc, hành vi của con người cũng vì thế mà trở nên lầm lạc… nhà Phật cho rằng người người đều có Phật tính, là tính hướng thiện, tính giác ngộ.
Quan niệm về bản tính con người của hai học thuyết này có điểm tương đồng nhất định. Văn bia chùa Báo Ân núi An Hoạch viết: “Phật có sắc vàng, cũng như người ta có Phật tính, nhưng không mấy ai tự giác, tự ngộ được. Người muốn chứng ngộ thì phải dựa vào thiện duyên”.
Phần Ngũ bá đệ thử thọ kí trong kinh Pháp hoa nhắc đến một anh chàng khốn khổ, nhân khi say rượu, được một người bạn thân giắt vào trong mình cho một viên ngọc quý mà không hề hay biết, đến nỗi sau đó phải trải qua vô vàn khổ nhục(7).
Trần Nhân Tông thì từng khuyên người ta rằng: “Trong nhà có của báu, chẳng cần phải tìm kiếm ở đâu xa xôi” (Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Trần Nhân Tông: Cư trần lạc đạo phú)… thảy đều để nói Phật tính là cái vốn có trong con người, nhưng người ta vì vô minh mà không thấy được nó, nên nỗi ngày một xa rời chân tính, đắm chìm trong bể ái nguồn mê.
Chính vì lí do ấy, Phật Thích Ca, ở nơi vô tịch của không tướng, xót nỗi luôn hồi của chúng sinh, nên đã giáng thế, dùng sự giáo hóa của mình như một thứ thiện duyên để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi bể khổ mà trở về miền lạc quốc.
Cái gọi là lạc quốc chính là chỉ đất nước của sự an lạc, đất nước của những con người giác ngộ. Sau khi Phật đã nhập diệt, nơi nơi tôn sùng tượng giáo, và sự cai trị của triều đại với ông vua tôn sùng Phật giáo (như thời Lí) có gì khác hơn là phải đảm nhận vai trò của cái thiện duyên ấy.
Trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, Nguyễn Công Bật nhắc lại lời kinh Pháp hoa, cho rằng người đời mê lầm, “quên bẵng của báu trong áo mà không tự biết” (y trung vong bảo nhi bất tự tri), cho nên đức Phật phải “lập nên diệu giáo Bồ đề, để nuôi dưỡng kẻ đói lòng đã bao thuở. Thắp ngọn đèn rực rỡ, soi đêm tối bao năm. Khiến cho vẻ hồn nhiên của tấm lòng phóng đãng được yên, làm cho thói bừa bãi của các tính mê lầm được định. Cho nên ba giới quy y, mười phương hồi hướng”.
Vì thế sau khi Phật đã nhập diệt, về nơi niết bàn thì ông vua của các triều đại tôn sùng Phật giáo sau đó phải có nghĩa vụ gánh vác sứ mệnh lớn lao như đức Phật từng thực hiện. Chính vì quan niệm này, trong bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, Nguyễn Công Bật mô tả về việc mẫu hậu có thai Lí Nhân Tông như sau:
“Kính nghĩ đức Hoàng đế bệ hạ, bậc “Thánh hiền thể đạo, thánh văn thần võ, anh cách dân vật, vạn linh chiếu ứng, vĩnh long nguyên hóa, thông minh quảng vận, nhân trí ý nghĩa, thuần thành minh hiếu”, của triều Lí, là do đất trời chung đúc, nhật nguyệt kết tinh. Cho nên, điềm lành báo trước, triệu tốt mở ra. Phụ hoàng nằm mộng, nước ngoài dâng voi trắng sáu ngà; mẫu hậu có thai, gác tía phủ rồng vàng năm sắc”.
Đệ tử nhà Phật và người có chút ít quan tâm đến Phật giáo thảy đều biết khi Phật Thích Ca Mâu Ni từ cung trời Đâu Suất giáng sinh, ngài cưỡi voi trắng sáu ngà, vì thế trước khi đức Phật giáng sinh, mẫu thân ngài, hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không sa vào bụng (Nhân quả kinh).
Giấc mơ voi trắng sáu ngà ấy sau thành điển tích đặc chỉ điềm báo đức Phật giáng sinh. Tại sao khi đề cập đến việc hoàng hậu hoài thai vua Lí Nhân Tông, Nguyễn Công Bật lại sử dụng môtíp tương tự? Ấy là vì tác giả muốn Phật hóa hình ảnh ông vua của mình thành hình tượng của một vị vua Phật.
Cũng trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, ở đoạn đầu tác giả nhắc đến các tướng tốt của Phật tổ: “Ngẫm như họ Đại Hùng [Phật tổ] của ta, ứng vận thời trung cổ, hiển linh ở trời Tây. [Người] có trọn ba nghìn uy nghi; ba mươi hai tướng lạ. Mười hiệu đầy đủ, trăm phúc trang nghiêm…”. Nếu như trong ba mươi hai tướng lạ đó có các tướng như: Lòng bàn chân bằng phẳng/ Dưới bàn chân có chỉ xoáy tròn như bánh xe có hàng ngàn nan hoa/ Ngón tay dài đẹp/ Gót chân rộng tròn/ Kẽ ngón tay ngón chân có màng mỏng như lưới/ Mu bàn chân cao đẹp, vv và vv… thì khi vua Lí Nhân Tông được sinh ra, “khí mừng vút thẳng trời xanh, hương lạ ngạt ngào cung cấm”. Ông vua ấy không chỉ có tướng mạo đường đường xuất chúng của đấng thánh vương, kiểu “Ngươi rồng mắt phượng, trong ngọc trắng băng. Mắt trong mà xanh trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi đế Thuấn; tai đẹp mà vành tai rộng, chê cái tai ba lỗ Hạ vương”, mà còn có những tướng tốt gần như giống hệt các tướng tốt của đức Phật: “dáng người vạm vỡ, bàn chân đầy đặn”.
Do nhà vua được mường tượng như một vị vua Phật nên nếu đức Phật lúc tại thế đã thiết lập các giáo pháp để giác ngộ chúng sinh, khiến khắp lượt chúng sinh được lên miền lạc quốc thì ông vua ở thời đại sùng Phật như vua Lí Nhân Tông cũng phải “đặt chúng dân vào nơi lạc quốc” (Đại Việt quốc Lí gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi), phải khiến cho người người hướng hóa, tức là biến quốc gia của mình thành một lạc quốc giữa miền nhân gian.
Nguyễn Công Bật, tác giả bài kí trên bia tháp Sùng Thiện Diên Linh giữ chức Thượng thư bộ Hình dưới triều Lí Nhân Tông. Văn bia trên được vua Lí Nhân Tông đích thân đề ngạch bằng lối chữ Phi bạch, là thể chữ đặc biệt trong thư pháp do Sái Ung thời Đông Hán sáng chế, từng được Trương Hoài Hoan thời Đường đánh giá là thể chữ “kì diệu tuyệt luân” (Trương Hoài Hoan – Thư đoán: “phi bạch diệu hữu tuyệt luân”).
Là bề tôi, tất nhiên Nguyễn Công Bật khó tránh được việc ca tụng vua của mình. Nhưng việc ông Phật hóa Lí Nhân Tông, biến Lí Nhân Tông thành vua Phật thì dường như ít nhiều nó phải được dẫn khởi bằng chính quan niệm của xã hội đương thời.
Và vì thế, có thể thấy, không phải đợi đến thời Trần, mô hình vua Phật (Phật hoàng) chí ít đã xuất hiện một cách khá rõ ràng và hoàn chỉnh vào thời Lí với đại diện là Lí Nhân Tông mặc dù trong các vua thời Lí, Lí Nhân Tông không phải là vị vua tiêu biểu cho sự chuyên tâm tu trì Phật giáo, tên tuổi của ông cũng không từng được liệt vào hạng “anh hoa vườn thiền”(8).
Từ trường hợp của Lí Nhân Tông, chúng ta có cơ sở để nghĩ rằng rất có thể mô hình vua Phật cũng là mô hình phổ quát của các triều đại mà ở đó, Phật giáo được coi như quốc giáo.
Phạm Văn Ánh – Thạc sĩ Viện Văn học
________________________
Chú thích:
(1). Chẳng hạn các nhà sư Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu…
(2). Đại Việt sử kí toàn thư, Ngô Đức Thọ dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1993.
(3). Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr. 240.
(4). Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr. 276.
(5). Nguyễn Hữu Mùi: Trăn Tân từ tích không phải bia thời Lí, in trong Thông báo Hán Nôm học (năm 1996), Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1997, tr. 229-236.
(6). Phần dịch nghĩa các văn bia trong bài, chúng tôi dẫn theo Thơ văn Lí Trần, T. I, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1971; T. II, quyển Thượng, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1989; Thơ văn Lí Trần, T. III, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1978.
(7). Kinh Pháp hoa – Phẩm Ngũ bá đệ thử thọ kí (bản dịch của Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh) viết: “Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xong, vui mừng hớn hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật ăn năn lỗi của mình mà tự trách:
– Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. Vì sao? Chúng con đáng được trí huệ của Như Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
– Thế Tôn! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say, cho nó rồi đi. Gã đó say mèm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ. Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng: "Lạ thay! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thụ năm món dục, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thực là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thì thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn”.
(8). Trong các vua nhà Lí, Lí Thái Tông được đưa vào trong sách Thiền uyển tập anh, bên cạnh các vị thiền sư đắc đạo.